GS.TS. Nguyễn Văn Tuấn: "Con đường khoa học có nhiều điều thú vị."
(http://www.vjsonline.org/scientist-portrait/gsts-nguy%E1%BB%85n-v%C4%83n-tu%E1%BA%A5n-con-%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng-khoa-h%E1%BB%8Dc-c%C3%B3-nhi%E1%BB%81u-%C4%91i%E1%BB%81u-th%C3%BA-v%E1%BB%8B)
GS.TS. Nguyễn Văn Tuấn
Giáo
sư Nguyễn Văn Tuấn là một nhà nghiên cứu loãng xương nổi tiếng trên thế
giới với hơn 250 công trình nghiên cứu khoa học được đăng tải trên các
tạp chí y khoa và khoa học quốc tế. Ông hiện đang là Principal Fellow
(1) đứng đầu một lab chuyên nghiên cứu về di truyền và dịch tễ học loãng
xương thuộc Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan (Úc), là giáo sư y khoa của
Đại học New South Wales, là giáo sư xuất sắc của Đại học Công nghệ
Sydney, và là giáo sư thỉnh giảng của Đại học Khon Kaen (Thái Lan) và
Đại học Tôn Đức Thắng. Ông bảo vệ thành công hai bằng tiến sĩ tại Đại
Học Sydney (chuyên ngành thống kê dịch tễ học) và Đại Học New South
Wales (chuyên ngành y khoa). Ông có kinh nghiệm làm nghiên cứu tại nhiều
nước như Thuỵ Sỹ, Anh, Mĩ, Na Uy, Thái Lan, và hợp tác với hơn 30 viện,
bệnh viện và nhiều trường đại học trên thế giới. Giáo sư Tuấn rất nổi
tiếng trong nước với nhiều bài phỏng vấn, sách báo và nhiều công trình
nghiên cứu khoa học có giá trị cho nghiên cứu, đào tạo tại Việt Nam. Ông
là một trong 15 nhà khoa học được trao giải thưởng “Vinh danh Nước
Việt” vào năm 2005
Với kinh nghiệm làm việc tại nhiều quốc gia khác nhau, giáo sư có thể cho biết những thuận lợi và khó khăn khi làm việc trong một môi trường quốc tế đòi hỏi tính chuyên môn cao?
Tôi nghĩ đối với khoa học, việc làm việc ở nhiều nước khác nhau sẽ cho chúng ta một viễn cảnh luôn tươi mới và có nhiều cơ hội tiếp cận với sự phát triển của chuyên ngành. Mỗi một lab hay nhóm nghiên cứu tôi đi qua hoặc có hợp tác đều cho tôi một vài ý tưởng, và một số bài học về cách tổ chức cũng như văn hoá khoa học. Thật ra, tôi cũng có những đóng góp về nhiều khía cạnh cho những lab mà mình từng ghé qua. Do đó, tôi lúc nào cũng khuyến khích nghiên cứu sinh của mình tìm cơ hội làm việc với những nhóm nghiên cứu khác nhau thay vì làm cùng một vị trí một thời gian quá dài. Ngoài ra, việc ghé qua và làm việc ở nhiều nơi cũng là những cơ hội phát triển nghề nghiệp, và nhất là học về kĩ thuật mới. Vì vậy mà tôi nghĩ rằng được làm việc trong một môi trường quốc tế, tiếp cận với nhiều nền khoa học khác nhau là một điều thuận lợi chứ không phải khó khăn.
Giáo sư có thể cho biết động lực nào đưa ông đến với con đường nghiên cứu khoa học và đặc biệt là chuyên ngành loãng xương mà ông đang theo đuổi bây giờ?
Trước khi đến với khoa học, khi còn trẻ tôi là một phụ tá trong nhà bếp ở bệnh viện mà tôi đang làm việc hiện giờ. Sau đó là phụ tá cho một bác sĩ nổi tiếng ở đây về quản lí và phân tích dữ liệu. Tôi thấy việc phân tích dữ liệu trong khoa học cũng rất hấp dẫn đối với mình, vì nó kích thích suy nghĩ và tìm tòi cái mới, nhưng lúc đó tôi không được đào tạo bài bản nên có khi … bí. Thế là tôi quyết định trở lại con đường học vấn và hoàn thành bằng tiến sĩ đầu tiên, và tôi tự nghĩ mình đã nắm vững kĩ thuật. Nhưng sau khi tham gia nhiều hội thảo, tôi thấy kĩ thuật vẫn chưa đủ, và nghĩ mình phải trở thành một nhà khoa học chuyên nghiệp, chứ không phải người hỗ trợ cho nhà khoa học, và do đó tôi quyết định theo học tiếp và tôi đã hoàn tất luận án tiến sĩ về ảnh hưởng của các yếu tố di truyền trong loãng xương. Có thể nói tôi là người may mắn, vì gặp được những người thầy rất tài, rất tốt và đáng mến. Họ là những chuyên gia số 1 trên thế giới, họ đã động viên và tạo điều kiện cho tôi rất nhiều. Trong thời gian học bằng tiến sĩ thứ hai, tôi may mắn được theo học với một người thuộc vào bậc thầy của thầy, và ông đã cho tôi độc lập theo đuổi hướng nghiên cứu do tôi chọn (vì lúc đó tôi không phải là nghiên cứu sinh mới vào nghề). Tôi công bố hơn 10 bài báo trong vòng 5 năm, trong đó có những bài được trích dẫn hơn 800 lần. Với những công trình có ảnh hưởng lớn như thế và với uy danh của lab cũng như của thầy, tôi trở thành một “tên tuổi” trong chuyên ngành loãng xương khá nhanh so với các đồng nghiệp khác. Bây giờ nhìn lại, tôi thấy môi trường khoa học tinh hoa và người thầy tốt đóng vai trò rất quan trọng trong sự thành công của một cá nhân nhà khoa học.
Con đường nghiên cứu khoa học của giáo sư khá thú vị, ông có thể chia sẻ với đọc giả của VJS những kỉ niệm vui buồn, ý nghĩa nào làm ông nhớ và tâm đắc trong sự nghiệp của mình?
Người làm khoa học có những nỗi khổ riêng. Họ thường là những người khá cô đơn, vì khi theo đuổi những đề tài chuyên môn hẹp họ có rất ít người chia sẻ. Họ phải cạnh tranh trên bình diện toàn cầu vì nói cho cùng hoạt động khoa học không có biên giới, mà cạnh tranh về ý tưởng hay để được ghi nhận “người tiên phong” thì thường rất ác liệt. Nhà khoa học phải phấn đấu và vượt lên đám đông để được đồng nghiệp công nhận. Ở một vị trí cao, nhà khoa học còn phải đau đầu với việc tìm tài trợ cho nghiên cứu và để giữ gìn nhóm nghiên cứu tồn tại. Nói chung, những nỗi khổ này ít ai biết, và do đó tôi nghĩ các nhà khoa học thường ít nói và cô đơn cũng có lí do của họ.
Cá nhân tôi cũng có vài kỉ niệm vui buồn. Đôi khi có những công trình mà tôi rất tâm đắc lại không có nhiều ý nghĩa trong cộng đồng, và ngược lại, có những công trình tôi không “mặn mà” mấy nhưng lại trở nên nổi tiếng. Có khi tôi cũng bực mình khi đi dự hội nghị người ta nói về công trình của mình mà lờ qua tác giả! Trong sự nghiệp của mình, tôi cũng có nhiều kỉ niệm rất thú vị và … buồn cười. Như trong một lần ngồi tán gẫu với bạn bè cũng là nhà khoa học, bỗng nhiên có một cô gái có vòng một “cực khủng” đi ngang qua; bạn tôi khẳng định vitamin D có vai trò hết sức quan trọng trong “vấn đề” này. Thật ra, tôi nghĩ đó chỉ là lời nói đùa. Thế mà từ đó chúng tôi thảo luận và bắt đầu tiến hành nghiên cứu trên quần thể những người sinh đôi và cho kết quả rất khả quan về một marker chu chuyển xương. Từ công trình đó, chúng tôi theo đuổi một công trình tiếp nối về mật độ xương, và cuối cùng công trình của chúng tôi được chấp nhận đăng trên tạp chí Nature. Đó cũng là một kỉ niệm hết sức thú vị.
Sắp tới giáo sư có dự án đặc biệt nào không? Được biết giáo sư có nhiều hoạt động xã hội tại Việt Nam, ông có thể chia sẽ thêm về vấn đề này?
Tôi đang viết một đề cương nghiên cứu mới về nguyên nhân của bệnh loãng xương theo phương pháp mới, hi vọng đề án sẽ được chấp nhận. Còn về hoạt động xã hội thì tôi chẳng có hoạt động gì cả; những việc tôi làm ở Việt Nam chỉ tập trung vào 3 lĩnh vực chính là nghiên cứu khoa học, giáo dục và đào tạo. Về khoa học, tôi đã hợp tác với nhiều đồng nghiệp ở Việt Nam trong hơn 15 năm qua, và đã công bố trên 30 bài báo khoa học trên các tập san y khoa quốc tế, một số tập san thuộc vào loại hàng đầu trong chuyên ngành. Mới đây, chúng tôi mới thành lập một nhóm nghiên cứu về cơ xương khớp ở Đại Học Tôn Đức Thắng với định hướng tập trung vào những nghiên cứu lâm sàng và nghiên cứu cơ bản tại Việt Nam. Đây là lần đầu tiên chúng tôi hợp tác thành lập một nhóm nghiên cứu bài bản như vậy tại Việt Nam, trong tương lai gần sẽ tiến tới thành lập những cơ sở nghiên cứu cơ bản và lâm sàng. Nhóm hiện nay có bảy người, mặc dù chỉ mới thành lập nhưng đã mang lại nhiều kết quả khả quan.
Một lĩnh vực khác tôi rất quan tâm là nâng cao năng lực nghiên cứu cho đồng nghiệp Việt Nam. Trong 15 năm qua, tôi đã thực hiện hàng trăm seminar và trên 20 workshop ở khắp mọi miền Việt Nam, mỗi workshop kéo dài từ 3 đến 15 ngày, và thường có trên 100 người tham dự. Các workshop này tôi tập trung vào phương pháp nghiên cứu khoa học, kĩ năng phân tích dữ liệu, kĩ năng viết và công bố bài báo khoa học, v.v. Những lớp tập huấn này giúp ích cho khá nhiều bạn trong việc chuẩn bị cho nghiên cứu và làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài. Ngoài ra, tôi còn phối hợp với các đồng nghiệp trong nước tổ chức các hội nghị khoa học về loãng xương cấp quốc gia và quốc tế.
Tôi quan tâm đến tình hình nghiên cứu khoa học và giáo dục trong nước. Do đó, tôi đóng góp khá nhiều bài báo về hai lĩnh vực này trên báo chí phổ thông, một số bài thật ra là những phân tích nghiêm chỉnh về đo lường khoa học. Tôi đã viết và xuất bản 12 cuốn sách ở Việt Nam. Sách của tôi bao gồm nhiều lĩnh vực như chất độc da cam, loãng xương, bàn về y tế và y khoa, phương pháp nghiên cứu, kĩ năng nghiên cứu, chất lượng giáo dục đại học, v.v. Những cuốn sách này cũng nhận được sự quan tâm của công chúng, có cuốn được tái bản 3 lần và chiếm giải. Nói chung, đây là những việc làm có thể xem là bên lề, nhưng nó đem lại nhiều niềm vui cho tôi.
Giáo sư có thể cho đọc giả biết về những nhận định của mình về tình hình nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay nói chung và về lĩnh vực y học nói riêng?
Về tình hình nghiên cứu khoa học hiện nay tại Việt Nam, nói thật là tôi thấy có rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết hay cải cách. Từ việc chọn đề tài, phân bổ ngân sách nghiên cứu, tiến hành nghiên cứu và cả đầu ra, tôi thấy tất cả đều có vấn đề. Cách chọn đề tài nghiên cứu có phần không đúng với chuẩn mực khoa học. Những đề án quan trọng tiêu tốn nhiều ngân sách nhà nước được phân bổ cho những người không có năng lực thật sự trong khi những người có năng lực thật sự lại không được lựa chọn. Tôi lấy ví dụ những đề tài như nghiên cứu về tăng chiều cao người Việt bằng việc thay đổi gen tiêu tốn rất nhiều tiền nhưng ý nghĩa thiết thực của nó không cao. Kinh phí nghiên cứu được cung cấp không công bằng. Kinh phí thật sự cho nghiên cứu không nhiều và xảy ra rất nhiều tiêu cực. Rồi đến vấn đề nghiệm thu, công trình được xếp vào ngăn tủ và không có được những bài báo quốc tế có giá trị. Tuy nhiên, tôi cũng thấy có những mảng hơi sáng trong việc quản lí nghiên cứu khoa học ở Việt Nam như là Quĩ NAFOSTED, bước đầu mang lại nhiều bài báo khoa học cho Việt Nam. Ở nhiều lĩnh vực khoa học, có thể nói rằng khoa học Việt Nam mang tính lệ thuộc, bởi vì phần lớn nghiên cứu đều do người nước ngoài chủ trì và người Việt chỉ đóng vai trò khiêm tốn. Đó là một điều rất đáng quan tâm.
Sinh viên Việt Nam tại nước ngoài được đánh giá là rất chăm chỉ, cần cù tuy nhiên khả năng sángtạo lại không cao? Ông có lời khuyên nào cho sinh viên Việt Nam để nâng cao tính cạnh tranh với sinh viên các nước khác?
Nhiều người ở Việt Nam nghĩ rằng sinh viên Việt Nam rất thông minh, hay chẳng kém bất cứ sinh viên nào ở các nước phương Tây. Tôi cũng muốn tin như thế, nhưng chứng cứ thì hình như không có. Tôi nghĩ nếu chỉ lấy vài trường hợp xuất sắc ra làm ví dụ thì e rằng không phản ảnh đúng tình hình chung. Sự thật là nhiều sinh viên Việt Nam khi ra nước ngoài học tập cũng gặp nhiều khó khăn, thậm chí thua kém các sinh viên khác. Trong nghiên cứu khoa học, tôi thấy sinh viên Việt Nam thường gặp phải một số khó khăn tiêu biểu như thiếu đào sâu suy nghĩ về chủ đề nghiên cứu, có ý nghĩ bỏ cuộc khi gặp vấn đề, kém tiếng Anh (kể cả viết và diễn thuyết), và kĩ năng tranh luận trong khoa học. Do đó, tôi nghĩ sinh viên Việt Nam mình cần cố gắng đào sâu suy nghĩ. Việc học tập hiện nay ở Việt Nam vẫn còn nặng tính đọc chép và thiếu kĩ năng phát hiện vấn đề và tự giải quyết vấn đề. Tôi có hướng dẫn nghiên cứu một vài em sinh viên Việt Nam, ban đầu các em có vẻ quen với việc cầm tay chỉ việc. Tôi nói với các em rằng ở bên này tất cả các công việc đều phải độc lập còn người thầy chỉ giúp định hướng nghiên cứu là chính thôi. Sau một thời gian các em cũng quen với cách làm việc và đạt được nhiều kết quả rất tốt. Do đó tôi tin là nếu sinh viên Việt Nam muốn cạnh tranh tốt thì cần phải rèn luyện tư duy độc lập, hiểu sâu vấn đề và kĩ năng giao tiếp trong khoa học.
Xin trân trọng cảm ơn giáo sư.
Thực hiện: Tâm Trần-Lãng Du
(1) “Principal Fellow” là một chức danh khoa học cao cấp thuộc vào nhóm tinh hoa (elite) của Úc.
Với kinh nghiệm làm việc tại nhiều quốc gia khác nhau, giáo sư có thể cho biết những thuận lợi và khó khăn khi làm việc trong một môi trường quốc tế đòi hỏi tính chuyên môn cao?
Tôi nghĩ đối với khoa học, việc làm việc ở nhiều nước khác nhau sẽ cho chúng ta một viễn cảnh luôn tươi mới và có nhiều cơ hội tiếp cận với sự phát triển của chuyên ngành. Mỗi một lab hay nhóm nghiên cứu tôi đi qua hoặc có hợp tác đều cho tôi một vài ý tưởng, và một số bài học về cách tổ chức cũng như văn hoá khoa học. Thật ra, tôi cũng có những đóng góp về nhiều khía cạnh cho những lab mà mình từng ghé qua. Do đó, tôi lúc nào cũng khuyến khích nghiên cứu sinh của mình tìm cơ hội làm việc với những nhóm nghiên cứu khác nhau thay vì làm cùng một vị trí một thời gian quá dài. Ngoài ra, việc ghé qua và làm việc ở nhiều nơi cũng là những cơ hội phát triển nghề nghiệp, và nhất là học về kĩ thuật mới. Vì vậy mà tôi nghĩ rằng được làm việc trong một môi trường quốc tế, tiếp cận với nhiều nền khoa học khác nhau là một điều thuận lợi chứ không phải khó khăn.
Giáo sư có thể cho biết động lực nào đưa ông đến với con đường nghiên cứu khoa học và đặc biệt là chuyên ngành loãng xương mà ông đang theo đuổi bây giờ?
Trước khi đến với khoa học, khi còn trẻ tôi là một phụ tá trong nhà bếp ở bệnh viện mà tôi đang làm việc hiện giờ. Sau đó là phụ tá cho một bác sĩ nổi tiếng ở đây về quản lí và phân tích dữ liệu. Tôi thấy việc phân tích dữ liệu trong khoa học cũng rất hấp dẫn đối với mình, vì nó kích thích suy nghĩ và tìm tòi cái mới, nhưng lúc đó tôi không được đào tạo bài bản nên có khi … bí. Thế là tôi quyết định trở lại con đường học vấn và hoàn thành bằng tiến sĩ đầu tiên, và tôi tự nghĩ mình đã nắm vững kĩ thuật. Nhưng sau khi tham gia nhiều hội thảo, tôi thấy kĩ thuật vẫn chưa đủ, và nghĩ mình phải trở thành một nhà khoa học chuyên nghiệp, chứ không phải người hỗ trợ cho nhà khoa học, và do đó tôi quyết định theo học tiếp và tôi đã hoàn tất luận án tiến sĩ về ảnh hưởng của các yếu tố di truyền trong loãng xương. Có thể nói tôi là người may mắn, vì gặp được những người thầy rất tài, rất tốt và đáng mến. Họ là những chuyên gia số 1 trên thế giới, họ đã động viên và tạo điều kiện cho tôi rất nhiều. Trong thời gian học bằng tiến sĩ thứ hai, tôi may mắn được theo học với một người thuộc vào bậc thầy của thầy, và ông đã cho tôi độc lập theo đuổi hướng nghiên cứu do tôi chọn (vì lúc đó tôi không phải là nghiên cứu sinh mới vào nghề). Tôi công bố hơn 10 bài báo trong vòng 5 năm, trong đó có những bài được trích dẫn hơn 800 lần. Với những công trình có ảnh hưởng lớn như thế và với uy danh của lab cũng như của thầy, tôi trở thành một “tên tuổi” trong chuyên ngành loãng xương khá nhanh so với các đồng nghiệp khác. Bây giờ nhìn lại, tôi thấy môi trường khoa học tinh hoa và người thầy tốt đóng vai trò rất quan trọng trong sự thành công của một cá nhân nhà khoa học.
Con đường nghiên cứu khoa học của giáo sư khá thú vị, ông có thể chia sẻ với đọc giả của VJS những kỉ niệm vui buồn, ý nghĩa nào làm ông nhớ và tâm đắc trong sự nghiệp của mình?
Người làm khoa học có những nỗi khổ riêng. Họ thường là những người khá cô đơn, vì khi theo đuổi những đề tài chuyên môn hẹp họ có rất ít người chia sẻ. Họ phải cạnh tranh trên bình diện toàn cầu vì nói cho cùng hoạt động khoa học không có biên giới, mà cạnh tranh về ý tưởng hay để được ghi nhận “người tiên phong” thì thường rất ác liệt. Nhà khoa học phải phấn đấu và vượt lên đám đông để được đồng nghiệp công nhận. Ở một vị trí cao, nhà khoa học còn phải đau đầu với việc tìm tài trợ cho nghiên cứu và để giữ gìn nhóm nghiên cứu tồn tại. Nói chung, những nỗi khổ này ít ai biết, và do đó tôi nghĩ các nhà khoa học thường ít nói và cô đơn cũng có lí do của họ.
Cá nhân tôi cũng có vài kỉ niệm vui buồn. Đôi khi có những công trình mà tôi rất tâm đắc lại không có nhiều ý nghĩa trong cộng đồng, và ngược lại, có những công trình tôi không “mặn mà” mấy nhưng lại trở nên nổi tiếng. Có khi tôi cũng bực mình khi đi dự hội nghị người ta nói về công trình của mình mà lờ qua tác giả! Trong sự nghiệp của mình, tôi cũng có nhiều kỉ niệm rất thú vị và … buồn cười. Như trong một lần ngồi tán gẫu với bạn bè cũng là nhà khoa học, bỗng nhiên có một cô gái có vòng một “cực khủng” đi ngang qua; bạn tôi khẳng định vitamin D có vai trò hết sức quan trọng trong “vấn đề” này. Thật ra, tôi nghĩ đó chỉ là lời nói đùa. Thế mà từ đó chúng tôi thảo luận và bắt đầu tiến hành nghiên cứu trên quần thể những người sinh đôi và cho kết quả rất khả quan về một marker chu chuyển xương. Từ công trình đó, chúng tôi theo đuổi một công trình tiếp nối về mật độ xương, và cuối cùng công trình của chúng tôi được chấp nhận đăng trên tạp chí Nature. Đó cũng là một kỉ niệm hết sức thú vị.
Sắp tới giáo sư có dự án đặc biệt nào không? Được biết giáo sư có nhiều hoạt động xã hội tại Việt Nam, ông có thể chia sẽ thêm về vấn đề này?
Tôi đang viết một đề cương nghiên cứu mới về nguyên nhân của bệnh loãng xương theo phương pháp mới, hi vọng đề án sẽ được chấp nhận. Còn về hoạt động xã hội thì tôi chẳng có hoạt động gì cả; những việc tôi làm ở Việt Nam chỉ tập trung vào 3 lĩnh vực chính là nghiên cứu khoa học, giáo dục và đào tạo. Về khoa học, tôi đã hợp tác với nhiều đồng nghiệp ở Việt Nam trong hơn 15 năm qua, và đã công bố trên 30 bài báo khoa học trên các tập san y khoa quốc tế, một số tập san thuộc vào loại hàng đầu trong chuyên ngành. Mới đây, chúng tôi mới thành lập một nhóm nghiên cứu về cơ xương khớp ở Đại Học Tôn Đức Thắng với định hướng tập trung vào những nghiên cứu lâm sàng và nghiên cứu cơ bản tại Việt Nam. Đây là lần đầu tiên chúng tôi hợp tác thành lập một nhóm nghiên cứu bài bản như vậy tại Việt Nam, trong tương lai gần sẽ tiến tới thành lập những cơ sở nghiên cứu cơ bản và lâm sàng. Nhóm hiện nay có bảy người, mặc dù chỉ mới thành lập nhưng đã mang lại nhiều kết quả khả quan.
Một lĩnh vực khác tôi rất quan tâm là nâng cao năng lực nghiên cứu cho đồng nghiệp Việt Nam. Trong 15 năm qua, tôi đã thực hiện hàng trăm seminar và trên 20 workshop ở khắp mọi miền Việt Nam, mỗi workshop kéo dài từ 3 đến 15 ngày, và thường có trên 100 người tham dự. Các workshop này tôi tập trung vào phương pháp nghiên cứu khoa học, kĩ năng phân tích dữ liệu, kĩ năng viết và công bố bài báo khoa học, v.v. Những lớp tập huấn này giúp ích cho khá nhiều bạn trong việc chuẩn bị cho nghiên cứu và làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài. Ngoài ra, tôi còn phối hợp với các đồng nghiệp trong nước tổ chức các hội nghị khoa học về loãng xương cấp quốc gia và quốc tế.
Tôi quan tâm đến tình hình nghiên cứu khoa học và giáo dục trong nước. Do đó, tôi đóng góp khá nhiều bài báo về hai lĩnh vực này trên báo chí phổ thông, một số bài thật ra là những phân tích nghiêm chỉnh về đo lường khoa học. Tôi đã viết và xuất bản 12 cuốn sách ở Việt Nam. Sách của tôi bao gồm nhiều lĩnh vực như chất độc da cam, loãng xương, bàn về y tế và y khoa, phương pháp nghiên cứu, kĩ năng nghiên cứu, chất lượng giáo dục đại học, v.v. Những cuốn sách này cũng nhận được sự quan tâm của công chúng, có cuốn được tái bản 3 lần và chiếm giải. Nói chung, đây là những việc làm có thể xem là bên lề, nhưng nó đem lại nhiều niềm vui cho tôi.
Giáo sư có thể cho đọc giả biết về những nhận định của mình về tình hình nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay nói chung và về lĩnh vực y học nói riêng?
Về tình hình nghiên cứu khoa học hiện nay tại Việt Nam, nói thật là tôi thấy có rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết hay cải cách. Từ việc chọn đề tài, phân bổ ngân sách nghiên cứu, tiến hành nghiên cứu và cả đầu ra, tôi thấy tất cả đều có vấn đề. Cách chọn đề tài nghiên cứu có phần không đúng với chuẩn mực khoa học. Những đề án quan trọng tiêu tốn nhiều ngân sách nhà nước được phân bổ cho những người không có năng lực thật sự trong khi những người có năng lực thật sự lại không được lựa chọn. Tôi lấy ví dụ những đề tài như nghiên cứu về tăng chiều cao người Việt bằng việc thay đổi gen tiêu tốn rất nhiều tiền nhưng ý nghĩa thiết thực của nó không cao. Kinh phí nghiên cứu được cung cấp không công bằng. Kinh phí thật sự cho nghiên cứu không nhiều và xảy ra rất nhiều tiêu cực. Rồi đến vấn đề nghiệm thu, công trình được xếp vào ngăn tủ và không có được những bài báo quốc tế có giá trị. Tuy nhiên, tôi cũng thấy có những mảng hơi sáng trong việc quản lí nghiên cứu khoa học ở Việt Nam như là Quĩ NAFOSTED, bước đầu mang lại nhiều bài báo khoa học cho Việt Nam. Ở nhiều lĩnh vực khoa học, có thể nói rằng khoa học Việt Nam mang tính lệ thuộc, bởi vì phần lớn nghiên cứu đều do người nước ngoài chủ trì và người Việt chỉ đóng vai trò khiêm tốn. Đó là một điều rất đáng quan tâm.
Sinh viên Việt Nam tại nước ngoài được đánh giá là rất chăm chỉ, cần cù tuy nhiên khả năng sángtạo lại không cao? Ông có lời khuyên nào cho sinh viên Việt Nam để nâng cao tính cạnh tranh với sinh viên các nước khác?
Nhiều người ở Việt Nam nghĩ rằng sinh viên Việt Nam rất thông minh, hay chẳng kém bất cứ sinh viên nào ở các nước phương Tây. Tôi cũng muốn tin như thế, nhưng chứng cứ thì hình như không có. Tôi nghĩ nếu chỉ lấy vài trường hợp xuất sắc ra làm ví dụ thì e rằng không phản ảnh đúng tình hình chung. Sự thật là nhiều sinh viên Việt Nam khi ra nước ngoài học tập cũng gặp nhiều khó khăn, thậm chí thua kém các sinh viên khác. Trong nghiên cứu khoa học, tôi thấy sinh viên Việt Nam thường gặp phải một số khó khăn tiêu biểu như thiếu đào sâu suy nghĩ về chủ đề nghiên cứu, có ý nghĩ bỏ cuộc khi gặp vấn đề, kém tiếng Anh (kể cả viết và diễn thuyết), và kĩ năng tranh luận trong khoa học. Do đó, tôi nghĩ sinh viên Việt Nam mình cần cố gắng đào sâu suy nghĩ. Việc học tập hiện nay ở Việt Nam vẫn còn nặng tính đọc chép và thiếu kĩ năng phát hiện vấn đề và tự giải quyết vấn đề. Tôi có hướng dẫn nghiên cứu một vài em sinh viên Việt Nam, ban đầu các em có vẻ quen với việc cầm tay chỉ việc. Tôi nói với các em rằng ở bên này tất cả các công việc đều phải độc lập còn người thầy chỉ giúp định hướng nghiên cứu là chính thôi. Sau một thời gian các em cũng quen với cách làm việc và đạt được nhiều kết quả rất tốt. Do đó tôi tin là nếu sinh viên Việt Nam muốn cạnh tranh tốt thì cần phải rèn luyện tư duy độc lập, hiểu sâu vấn đề và kĩ năng giao tiếp trong khoa học.
Xin trân trọng cảm ơn giáo sư.
Thực hiện: Tâm Trần-Lãng Du
(1) “Principal Fellow” là một chức danh khoa học cao cấp thuộc vào nhóm tinh hoa (elite) của Úc.
No comments:
Post a Comment