Luận văn của Nhã Thuyên nhắc tôi nhớ tới một thời tưởng
chừng đã xa.
Năm 1998, khoảng tháng 8, tôi ra bảo vệ luận án cấp
cơ sở (từ ngữ cũ gọi là bảo vệ thử).
Khi một trong những người giới thiệu luận án (từ ngữ cũ gọi là phản biện) là thầy Trần Ngọc Thêm phát
biểu đến đoạn:
-Tiếng là thống
kê ngẫu nhiên nhưng chẳng có gì là ngẫu nhiên. Anh ấy đưa vào đếm cả Nỗi Buồn
Chiến Tranh. Thiếu gì tác phẩm mà phải dùng một tác phẩm có vấn đề về chính trị?
Anh ấy thích quyển ấy thì anh ấy đếm chứ
không phải là ngẫu nhiên.
Thầy Huỳnh Bá Lân, trưởng phòng đào tạo sau đại học,
quên cả xin phép hội đồng, lập tức đứng dậy, chém tay, giọng hùng hồn:
-Nếu tác phẩm
có vấn đề về chính trị thì dứt khoát phải đưa ra.
Tôi không trả lời câu hỏi của thầy Thêm. Trả lời cách
nào cũng không ổn. Thực sự là không có cách trả lời ổn thỏa trong vòng vài phút,
vì tất cả những gì liên quan đến phương pháp thu thập ngữ liệu đã được trình
bày thành nội dung của một chương luận án (chương 2). Thầy Nguyễn Đức Dân, người
hướng dẫn luận án, đứng lên bênh, đại ý là nguyên tắc ngẫu nhiên vẫn được bảo đảm
nếu tổ chức thống kê với quy mô thế nào, thế nào, theo cách phân tầng, phân lớp
thế nào, thế nào...., thực chất là tóm tắt lại một phần nội dung chương 2 cho cử
tọa không có văn bản luận án trong tay. Nhưng thầy không nói gì chuyện Bảo Ninh cả.
Bốn tháng sau tôi nộp lại luận án đã sửa chữa theo
các ý kiến của hội đồng cấp cơ sở. Thầy Huỳnh Bá Lân, sau khi kiểm tra đầy đủ
chữ ký của các vị giáo sư có liên quan, còn cẩn thận hỏi:
-Em bỏ cái tác
phẩm có vấn đề về chính trị rồi phải không?
Tôi cười:
-Thầy yên tâm.
Em bỏ ra ngoài rồi.
Thầy Lân cũng cười, hiền lành:
-Em làm vậy là
đúng. Thiếu gì tác phẩm cho mình nghiên
cứu. Đừng....[khá dài, quên rồi].
Bản luận văn đó ra Hà Nội không gặp vấn đề gì về
chính trị với các phản biện kín (sau này biết là các thầy Nguyễn Thiện Giáp và
Đào Thản) trong khi một luận án khác cùng trường viết về quan hệ Việt Úc bị phản
biện kín đòi bác vì phản động (nghe nói ông thầy của chị H. phải bay ngay ra Bắc
để giải trình ; rồi cũng qua, tức là không có gì phản động). Tháng 8-1999 tôi
được phép bảo vệ cấp nhà nước (từ ngữ cũ là bảo
vệ chính thức).
Mười sáu tháng sau tôi bảo vệ một luận án khác ở
Pháp. Luận án có năm chương. Chương thứ ba viết về các đặc tính thống kê của từ
(caractères statistiques du mot) và một
số đoạn trong các chương tiếp theo sử dụng ngữ liệu là quyển Nỗi Buồn Chiến Tranh. Bài La collocation et la notion d’intégrité formelle du mot (http://tutrachoc.blogspot.com.au/2014/04/la-collocation-et-la-notion-dintegrite.html)
là một đoạn
trích từ chương 3 của luận án đó, lẽ ra đã được công bố sớm hơn ở Việt Nam
nhưng lại được đem đi tính thành tích cho đại học Pháp. Chung quy chỉ vì mình
hèn.
Đó là một thực tế đã, đang và sẽ còn tồn tại. Không biết đến bao giờ người ta mới bỏ được cái kiểu vơ cả khoa học và chính trị vào cả một cái chét tay. Nhìn đâu cũng thấy dường như có người đang bóng gió...
ReplyDelete