Sunday, 19 May 2013

Ai viết bài ký tên Nguyễn Ái Quấc tại Pháp từ 1919 đến 1923? (Thụy Khuê)


NHÂN VĂN GIAI PHẨM - 
Bài đăng : Chủ nhật 05 Tháng Chín 2010 - Sửa đổi lần cuối Thứ tư 30 Tháng Giêng 2013

Phần XV: Phan Khôi - Chương 1b : Ai viết bài ký tên Nguyễn Ái Quấc tại Pháp từ 1919 đến 1923?

Trang nhất báo Le Paria (Người Cùng Khổ) số tháng 9-10/1925
Trang nhất báo Le Paria (Người Cùng Khổ) số tháng 9-10/1925

Thụy Khuê
Hai gia đình cách mạng đã có công lớn đối với đất nước trong thế kỷ XX, là gia đình cụ Lương Văn Can ở Bắc và cụ Nguyễn An Khương trong Nam. Không những hai cụ là những nhà nho lãnh đạo phong trào Duy Tân và Đông Du ở Bắc và Nam, mà còn là thân phụ của hai người anh hùng hiện đại: Lương Ngọc Quyến và Nguyễn An Ninh, tiêu biểu cho hai khuynh hướng cách mạng: bạo động của Phan Bội Châu và bất bạo động của Phan Châu Trinh.

Nguyễn An Ninh (1900-1943)
Nguyễn An Ninh sinh ngày 5/9/1900 tại Chợ lớn. Là con và cháu của hai nhà cách mạng: Cha là Nguyễn An Khương,chú là Nguyễn An Cư, và cô ruột, đều là những nhà cách mạng. Nguyễn An Khương, đại diện Đông Kinh Nghiã Thục, lập khách sạn Chiêu Nam lầu để tài trợ cho phong trào Duy tân và Đông du. Dịch sách chữ Hán sang tiếng Việt. Viết bài trên Nông Cổ Mím-Đàm kêu gọi lòng yêu nước. Nguyễn An Cư, là nhà văn, nhà nho uyên thâm, thày thuốc Nam nổi tiếng. Gia đình gốc ở Quán Tre, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định (Sàigòn).
Nguyễn An Ninh tiếp nhận hai nền giáo dục từ nhỏ: Hán học, do cha và cô ruột dạy và Pháp văn: học trường Sở Cọp (ngang vườn bách thú), rồi trường dòng Taberd, và lycée Chasseloup Laubat. Làm báo tiếng Pháp rất sớm khi vừa xong bằng Brevet Élémentaire (Sơ học). Nổi tiếng bất khuất, chửi Tây, đánh Tây. Thủa nhỏ có tật nói cà lăm, nhưng tự luyện khỏi cà lăm. Khi ở Paris, ngày nghỉ thường ra ngoại ô, vào rừng luyện giọng hàng giờ, sau trở thành nhà diễn thuyết hùng hồn, lôi cuốn. Năm 1916, ra Hà Nội học trường thuốc, sáu tháng sau bỏ thuốc qua Luật. Không đầy một năm sau, Ninh về Sàigòn rồi sang Pháp học tiếp Luật. Đó là năm 1918 (theo Phương Lan-Bùi Thế Mỹ, Hồ Hữu Tường và Lê Văn Thử). "Ninh sang Pháp du học vào năm 1918, lúc Đức Quốc đã thua trận. Đến năm 1920, đã đoạt được bằng Cử Nhân Luật, vào lúc mới 20 tuổi" (Phương Lan- Bùi Thế Mỹ, trang 11)
Hoạt động trong Hội Người An Nam yêu nước và là một trong những cây bút ký tên Nguyễn Ái Quấc của nhóm Ngũ Long.
Về nước mùa thu năm 1922, sau khi đi Âu Châu (Anh và Ý), diễn thuyết nhiều lần tại Hội Khuyến Học Nam Kỳ, đả kích chính sách thực dân, phát huy tinh thần dân chủ, được thanh niên hưởng ứng.
Tháng 3/1923, Nguyễn An Ninh sang Pháp, ở lại nửa năm, dường như chuyến đi này để thuyết phục Phan Văn Trường về nước. Phan Văn Trường rời Pháp ngày 22/12/1923 và đến Sàigòn ngày 21/1/1924.
Đêm 15/10/1923, Nguyễn An Ninh diễn thuyết ở hội Khuyến học Sàigòn, bài Cao Vọng Thanh niên, có tiếng vang lớn, Thống đốc Nam Kỳ gọi Ninh lên cảnh cáo.

Ngày 10/12/1923, phát hành số 1, báo La Cloche fêlée (Chuông rè) do Nguyễn An Ninh sáng lập, Jean de la Bâtie (Lê Văn Thử ghi Dejean de la Bâtie), làm chủ nhiệm. Bâtie sẽ là thày dạy tiếng Pháp cho Phan Khôi. Việc Phan Khôi bị mật thám theo dõi phải lánh xuống Cà Mau ba năm trong khoảng thời gian này, chắc có liên quan tới báo Chuông rè.
La Cloche fêlée là cơ quan ngôn luận đầu tiên chống Pháp công khai và mãnh liệt tại Việt nam. Nguyễn An Ninh viết bài, lên trang, đưa in và tự mình đem báo đi bán. Báo viết tiếng Pháp, đánh thẳng vào các chính sách thực dân.
Đến số 19, ra ngày 14/7/1924, phải tạm ngưng (vì vụ Phạm Hồng Thái ném bom ở Sa Điện, Quảng Châu, giết hụt toàn quyền Merlin ngày 19/6/1924, và một số sự kiện khác, theo Ngô Văn, sđd, trang 50). Theo Lê Văn Thử, phải tạm ngưng vì Thống đốc Cognacq tìm cách đóng cửa tờ báo nhưng không được, bèn sai lính kín hăm dọa chủ nhà in (Lê Văn Thử, Hội Kín Nguyễn An Ninh, Nam Việt, 1949, trang 24).

La Cloche fêlée phải tạm ngưng, Nguyễn An Ninh lại sang Pháp, gặp Nguyễn Thế Truyền đang phụ trách tờ Le Paria và Hội Liên hiệp Thuộc địa. Ninh ở Pháp gần một năm và lần này đón Phan Châu Trinh về nước. Ngô Văn viết:
"Trước khi lên đường ba hôm, Ninh và Trinh tham dự cuộc mít tinh tập hợp hơn 800 người Pháp và Đông Dương tại Khách sạn Hội Bác Học (Hôtel des Sociétes savantes): kết cuộc mít tinh quyết nghị như sau: 
"Những người Pháp và Đông Dương tập hợp ngày 25/5/1925 hồi 21 giờ, do ông Phan Châu Trinh chủ toạ, sau khi nghe các bản tường trình của các ông Nguyễn An Ninh, Diệp Văn Kỳ và Dương Văn Giáo về tình hình chung ở Đông Dương, đã thông qua nghị quyết sau đây để gửi tới chính phủ cộng hoà..." (Ngô Văn, trang 50, trích theo Georges Garos, Forceries humaines, Paris 1926, trang 179). Nội dung bản quyết nghị tương tự như bản Thỉnh nguyện thư 1919 của Phan Văn Trường, thêm vài điều khoản mới, nên chúng tôi không chép lại ở đây.

Ngày 18/5/1925, Phan Châu Trinh và Nguyễn An Ninh lên đường xuống Marseille.
"Phan Châu Trinh đã xuống tàu hôm 28/5/1925 về Sàigòn. (...) Cùng chuyến tàu có tên phiến loạn chống Pháp là Nguyễn An Ninh cùng về. Cũng có quyển France en Indochine [tác phẩm của Nguyễn An Ninh] chống Pháp một cách đáng ghét đã được đem về trong chuyến này. Yêu cầu không được phổ biến quyển sách này. Xin làm mọi cách để ngăn cấm." (Điện tín ký tên André Hesse - do tổng giám đốc cơ quan An Ninh gửi từ Paris sang Hà Nội (Thu Trang, trang 231-232).

Tờ Chuông rè im lặng được 20 tháng, khi Phan Bội Châu bị bắt đưa về Hà Nội, ra toà ngày 23/11/1925 về tội "phiến loạn", Nguyễn An Ninh tung trở lại tờ Chuông rè ngày 25/11/1925, phát động chiến dịch bảo vệ Phan Bội Châu (cùng với Đông Pháp Thời Báo) và bên Pháp Nguyễn Thế Truyền lập tức vận động Hội Liên hiệp Thuộc địa; tổ chức mít tinh lớn tại Hội trường Hội Bác Học ngày 9/10/1925; ứng khẩu diễn thuyết hùng hồn cảm động và viết trọn hai số Le Paria 36 và 37 về Phan Bội Châu. (ĐHT, trang 56-57).
Toàn quyền Varenne phải thả Phan Bội Châu ngày 24/12/1925, đưa về an trí ở Huế.
Đầu năm 1927, Ninh sang Pháp và lần này đón Nguyễn Thế Truyền về nước.

Nguyễn An Ninh: Năm lần bị bắt và bị cầm tù 
1- Lần thứ nhất: 20/3/1926, bị bắt, bị kết án 18 tháng tù, vì tội phá rối trị an, viết báo Chuông rèvà truyền đơn xúi dân làm loạn, tổ chức mít tinh tại Xóm Lách, Vườn Xoài (tổ chức chứ không tham dự, vì bị bắt từ hôm trước), ở nhà bà Đốc Phủ Tài, dì ruột của Ninh, đưa ra bản quyết nghị có ba ngàn người biểu quyết, đòi tám điểm, tương tự như Bản Thỉnh Nguyện của Phan Văn Trường tại Hội nghị Hoà bình Versailles năm 1919.
Phan Châu Trinh mất ngày 24/3/1926. Tổ chức đám tang Phan Châu Trinh do Ninh và Phan Khôi đảm trách, nhưng Ninh bị bắt ba ngày trước đó (chúng tôi sẽ nói rõ hơn trong phần thứ nhì, viết về Phan Khôi).
Ngày 7/1/1927, được ân xá, Ninh xin sang Pháp, liên lạc các nhóm đấu tranh ở Pháp và mời Nguyễn Thế Truyền về nước (Phương Lan- Bùi Thế Mỹ, trang 177). Ngày 7/12/1927 Nguyễn Thế Truyền và gia đình, cùng Nguyễn An Ninh lên tàu Chantilly, từ Marseille về Sàigòn.

2- Lần thứ nhì: tháng 9/1928, bị kết án ba năm tù vì tội lập Hội Kín Nguyễn An Ninh, dính líu gần 500 người bị bắt vì tội "đảng viên". Phan văn Hùm cũng bị tù, được thả, viết cuốn sách nổi tiếng Ngồi tù khám lớn. Đến cuối năm 1930, Ninh được thả.

3- Lần thứ ba: 4/1936, bị bắt về tội viết báo La lutte (Tranh đấu) (quy tụ nhóm: Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Lê Văn Thử, Phan Văn Hùm) phá rối trị an, bị kết án 18 tháng tù, cùng với Tạ Thu Thâu, Nguyễn Văn Tạo. Tuyệt thực. Tháng 11/1936 được thả.

4- Lần thứ tư: 7/37 bị bắt trở lại, kết án 5 năm tù ở, 5 năm biệt xứ, về tội tổ chức biểu tình ở quận Càn Long "xúi giục dân chúng nổi loạn". Tháng 1/1939 được ân xá.

5- Lần thứ năm: Ngày 5/10/1939, đệ nhị thế chiến bùng nổ, bị bắt cùng với nhiều nhà chính trị khác đủ các khuynh hướng. Ninh bị kết tội phá rối trị an bằng cách hành động trong những cơ quan bí mật, tiếp xúc và xúi giục nông dân, thợ thuyền nổi lên chống chính phủ Pháp. Bị kết án:5 năm tù. 10 năm biệt xứ và mất quyền công dân.  Lần này, không thoát khỏi tử thần, nhà cách mạng Nguyễn An Ninh mất tại Côn Đảo ngày 14/8/1943, ở tuổi 43. (Theo Phương Lan-Bùi Thế Mỹ)

Bài diễn thuyết Cao vọng thanh niên tại hội Khuyến học Sàigòn, đêm 15/10/1923 đánh dấu sự thành công đầu tiên của Nguyễn An Ninh như một nhà trí thức ái quốc (23 tuổi) "mở màn cho cao trào cách mạng, mở mang dân trí, dân sinh, dân quyền, dân chủ cho nòi giống Việt" như Phương Lan Bùi Thế Mỹ nhận xét (Phương Lan Bùi Thế Mỹ, trang 12). Bài diễn văn này, và các bài viết trên La cloche fêlée của Nguyễn An Ninh đã ảnh hưởng sâu xa đến lớp trẻ như Hồ Hữu Tường, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu... Họ coi Ninh như thần tượng và noi gương Ninh làm cách mạng chống Pháp, lập đảng Trốt kít. Phan Khôi, dù lớn hơn Ninh 13 tuổi, cũng chịu ảnh hưởng của Ninh (sẽ chứng minh bằng văn bản) trong việc xây dựng một nền quốc học, thoát khỏi ảnh hưởng Khổng Mạnh, gần gụi với tinh thần khoa học Tây phương.

Tại Paris, Ninh vừa làm vừa học: viết bài khảo cứu về Đông Phương học cho các báo, hoặc làm người mẫu cho họa sĩ. Chơi thân với giới văn nghệ sĩ Pháp và nhóm Anarchiste (Vô chính phủ). Để tóc dài. Có lúc Nguyễn An Ninh và Phan Văn Hùm cạo trọc đầu. Khi về nước, viết báo, lên khung, in báo, mặc áo dài, tóc dài, đem báo rao bán trên đường Catinat. Nấu dầu cù là Nguyễn An Ninh đem bán khắp thôn quê kiếm sống và diễn thuyết, nói chuyện với quần chúng đói khổ về tình hình đất nước. Nguyễn An Ninh là khuôn mặt cách mạng độc đáo nhất trong thế kỷ XX.

Tại Paris, hoạt động tích cực trong hội Người An Nam Yêu Nước, trở thành một trong Ngũ long, diễn thuyết và viết báo chống thực dân Pháp. "Tụi Tây ít khi phục bằng cấp (...) Ninh viết français hay lắm, tụi nó lác mắt. Chừng đó mới chịu phục (...) Khởi đầu, Ninh viết trong tờ Le Libertaire [Người tự do tuyệt đối] là cơ quan anarchiste [Vô chính phủ]. Tây nó phục rồi, mới rủ Ninh đứng vào nhóm sáng lập tạp chí Europe (do J.R.Bloch làm giám đốc)... Vào tạp chí Europe, Ninh làm quen với Léon Werth. Sau Ninh rủ Léon Werth qua bên mình. Về Pháp, Léon Werth viết cuốn Cochinchine để ca tụng Ninh là người trí thức độc nhứt kể cả Tây lẫn Việt, mà Werth gặp được ở Nam Kỳ". (Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, Đông Nam Á, Paris, 1984, trang 13).
"Năm 1922, vào mùa thu, sau khi kết nạp, tìm tòi, học hỏi ở Ý và ở Anh, kết nạp đặng nhiều bạn đồng chí như lãnh tụ Ấn Độ Nerhu, Ninh đã trở về đất nước phổ biến chí hướng phong trào ái quốc, cách mạng với dân tộc. Cái tài quan trọng nhứt là tài diễn thuyết và viết. Ninh đem từ Âu Châu về một lối văn mới, lời ít mà nói nhiều, câu văn gọn không rườm rà dài dòng lê thê mà tối nghiã như lối nhà văn thâm nho." (Phương Lan- Bùi Thế Mỹ, Nguyễn An Ninh, trang 41). Lối viết thẳng và bộc trực này, cũng sẽ là lối viết của Phan Khôi, nhất là trong những văn bản cuối cùng, lối lập luận và văn phong của Phan Khôi về đấu tranh giai cấp có nhiều điểm giống Nguyễn An Ninh. Ninh viết về Đạo Phật, về Nietzsche, dịch 5 chương đầu cuốn Contrat social (Dân ước) của Rousseau... Hành động quyết liệt nhưng tư tưởng trung dung, giao hoà Âu Á. Đó là Nguyễn An Ninh.

Nguyễn An Ninh tỏ lòng ngưỡng mộ đặc biệt Lương Ngọc Quyến, có lẽ cái chết bi tráng của Ngọc Quyến đã gây dấu ấn sâu đậm trong Ninh, khiến sau này Ninh cũng trở nên một nhà cách mạng can trường vào bậc nhất của thế hệ ông. Trong 43 năm sống, một phần ba đời vào tù ra khám, nhưng không hề nhụt chí, tiếp tục tranh đấu bằng ngòi bút cho đến chết.

Với cái nhìn rộng về tình hình thế giới, thâm hiểu cuộc cách mạng bất bạo động của dân Ấn Độ, Nguyễn An Ninh là khuôn mặt cách mạng hiện đại nhất của chúng ta. Một thần tượng trẻ trung, bụi đời, hóm hỉnh. Nhưng Nguyễn An Ninh còn là người anh cả nếu không muốn nói làcha đẻ của phong trào cách mạng thanh niên, chủ yếu nhóm Trốt-kít, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Hồ Hữu Tường, Huỳnh Văn Phương... những thanh niên học trường Tây, sử dụng ngôn ngữ Voltaire, dùng tinh thần cách mạng 1789 để chống thực dân Pháp tại Pháp và tại Nam Kỳ, trong suốt 25 năm, từ 1920 đến 1945.

Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh 
Khác hẳn với các nhà cách mạng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... Tiểu sử Hồ Chí Minh là một bí mật. Chỗ nào ông muốn viết (hoặc sai người viết), chỗ nào giấu đi hoặc thêm thắt vào, là có chủ đích rõ ràng. Chủ đích đó không phục vụ sự thật, như Phan Bội Châu viết Ngục Trung Thư hay Tự Phán: thật như đếm, sai lầm của mình cũng viết, ý kiến nào do Nguyễn Thành hay Lương Khải Siêu nghĩ ra cũng nói rõ.
Hồ Chí Minh không ngần ngại nhận mình là tác giả những bài viết và những công trình không phải của ông. Đó là sự cách biệt sâu xa về nhân cách giữa hai nhà cách mạng. Lời Phan Khôi dặn con: "Khi con gái của Mác hỏi cha thích tính gì nhất? Mác đã trả lời: tính thật thà!" (Phan Thị Thái, Nhớ cha tôi học giả Phan Khôi, Kiến thức ngày nay, tháng 12/1996), là một chúc thư mà cũng là một lời cảnh cáo Hồ Chí Minh về toàn diện lịch sử mờ ám của ông.
Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ chú ý đến thời kỳ Nguyễn Tất Thành ở Pháp, từ 1919 đến1923. Thời gian này, ông tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc và chính những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc đã xây dựng nên huyền thoại Hồ Chí Minh.
 
1- Nghi vấn thứ nhất: năm sinh?

Cuối lá thư viết tay ở Marseille ngày 15/9/1911, gửi cho Tổng thống Pháp, xin vào học trường Thuộc địa, có ghi sinh năm 1892 ở Vinh. Một mật báo ghi Nguyễn sinh ngày 24/1/1892. Một mật báo khác, ghi 15/1/1894. Trong hộ chiếu vào Nga năm 1923, theo Hồng Hà, ghi 15/1/1895. Còn ngày sinh chính thức 19/5/1890, có từ năm 1946, có thể lấy ngày thành lập Việt Minh. [Theo Nguyễn Thế Anh, L'itinéraire polytique de Ho Chi Minh, trong cuốn Ho Chi Minh, L'homme et son héritage, Đường Mới, Paris, 1990].
Những sử gia Pháp, như Hémery cho rằng: năm sinh chính thức 1890 (thay vì 1895 hay 1898), chỉ có mục đích phục vụ huyền thoại: 1890 tính đến 1945 là ngoại ngũ tuần, đáng được gọi bằng Bác. Năm Nguyễn Tất Thành từ Anh sang Pháp cũng thế, theo Hémery, Nguyễn Tất thành đến Pháp năm 1919. Nhưng lại chính thức chọn năm 1917, vì có những mốc lịch sử gắn liền: những cuộc binh biến trong quân đội Pháp và cuộc cách mạng tháng 10 của Nga. (Pierre Brocheux, Ho Chi Minh, Presses Sciences Po, 2000, trang15).

Tiểu sử chính thức Hồ Chí Minh, được rút từ những cuốn hồi ký do chính ông viết hoặc sai người viết: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch của Trần Dân Tiên, bản đầu tiên viết mùa xuân năm 1948 bằng chữ Hán, in ở Thượng Hải năm 1949. Dịch và in ở Hà Nội năm 1958. Cuốn thứ nhì: Vừa đi đường vừa kể chuyện của T. Lan, in năm 1963(T. Lan làmột trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh sau 1951, theo Bùi Tín, ông rút ngắn bí danh Trần Thái Lan của Nguyễn Thị Minh Khai khi hoạt động ở Hương Cảng và Quảng Đông). Cuốn thứ ba: Thời thanh niên của Bác Hồ, của Hồng Hà, nxb Thanh Niên, 1976. Cuốn của Trần Dân Tiên có một số đoạn tương đối thành thực. Cuốn của Hồng Hà, đầy đủ và logique hơn, nhưng có những đoạn bớt đi hoặc thêm vào, lộ liễu, cốt để nâng cao giá trị thần tượng.

Trong thời gian 1911-1923, cuộc đời Nguyễn Tất Thành, có thể đã diễn ra như sau :
Ngày 4/6/1911, Nguyễn Tất Thành rời Sàigòn trên tàu L'Amiral Latouche-Tréville, trọng tải 6000 tấn, chạy đường Sàigòn-Dunkerque, làm phụ bếp, lấy tên là Văn Ba. Tháng 9, tới Marseille, gửi thư cho Tổng Thống Pháp xin vào học trường Thuộc Địa. Rồi lại theo tàu về Le Havre. Làm việc nhà cho ông chủ tàu ở Sainte Adresse ngoại ô Le Havre, độ một tháng rồi lại tiếp tục lên tàu đi Phi Châu.

Từ 1912 tới mùa hè 1914, vẫn dùng tên Ba, làm bồi, phụ bếp, hoặc khuân vác trên những tàu xuyên Đại Tây Dương, chạy đường Le Havre – Londres - New York, hoặc Châu Phi - Châu Mỹ. Từ 1914-1919, bỏ việc bồi bếp trên tàu, sống tại Luân Đôn với tên Nguyễn Tất Thành, ở số 8 Tottenham Road. (Theo Hémery, trong thế chiến, Tất Thành tránh sang Pháp vì ngại có thể bị gọi đi quân dịch). Làm việc tại khách sạn Carlton, rửa bát, rồi phụ bếp. Học tiếng Anh và hình như buổi tối có học thêm Máy móc (Mécanique) và Điện. Trao đổi thư từ thường xuyên với Phan Châu Trinh, bằng Hán văn. Khoảng tháng 5-6/1919, sang Paris. Hoạt động trong Hội Người An Nam Yêu Nước.

Ngày 27/12/1920, khai mạc hội nghị Tours của đảng Xã hội (SFIO), xuất hiện công khai với tên Nguyễn Ái Quốc.
Ngày13/6/1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật đi Nga, tới Moscou ngày 30/6/1923.
Tháng 2/1925, Lý Thụy xuất hiện ở Quảng Đông -tình báo Trung Hoa nhận diện là Nguyễn Ái Quốc- Thành lập Việt nam Thanh niên Cách mệnh Đồng chí hội.

Nghi vấn thứ nhì: Trình độ học vấn

Theo năm sinh chính thức 1890, thì 1911, khi xuống tàu đi Pháp, Tất Thành 21 tuổi.
Từ điển Văn học và các tiểu sử chính thức đều ghi: thủa nhỏ học chữ Hán rồi chữ quốc ngữ, sau vào Quốc Học Huế. Đầu năm 1911, bỏ học, vào Phan Thiết dạy ở trường Dục Thanh [trường đầu tiên của phong trào Duy Tân], ít lâu sau vào Sàigon, rồi từ Sàigòn "xuất dương tìm đường cứu nước".
Daniel Hémery viết: "Theo lời khai của của Đạt (anh cả của Thành) với Sở Mật thám năm 1920, thì Thành học trường bảo hộ (franco-indigène), dường như Đông Ba, đậu bằng Tiểu học (Certificat d'études primaires). Cả hai ghi tên vào trường Quốc học (...) nhưng Thành học dở dang, bỏ đi làm (khoảng 1909?), làm trợ giáo, lương 8 đồng một tháng, ở trường Dục Thanh tại Phan Thiết."Daniel Hémery, Ho Chi Minh De L'Indochine au VietNam, Gallimard 1990, trang 32-33).
Hémery ghi rõ học trường Pháp-Việt và còn đậu cả bằng Certificat d'études primaires.
Nếu những chi tiết trên đây đúng, thì Nguyễn Tất Thành đi học đến năm 19 hoặc 21 tuổi, và nếu có cả Certificat d'études primaires tất phải biết tiếng Pháp.

Nhưng Trần Dân Tiên (Hồ Chí Minh) lại đưa ra những chứng cớ trái ngược, như sau: Ở trên tàu Latouche-Tréville "mỗi ngày anh Ba phải làm từ 4 giờ sáng", "công việc kéo dài suốt ngày", "suốt ngày anh Ba đẫm nước, hơi và mồ hôi, mình đầy bụi than", buổi tối có hai người lính giải ngũ, về Pháp, tốt bụng, "dạy cho anh đọc và viết" (TDT, trang 15-16-17)
Khi làm vườn cho ông chủ tàu ở Sainte Adresse, thì "anh học tiếng Pháp với cô sen" (TDT, trang 20).
Không có lý gì mà Hồ Chí Minh viết sai về chuyện này, nhất là ông lập lại việc khi đến Pháp ông không thạo tiếng Pháp, không viết được tiếng Pháp, phải nhờ Phan Văn Trường viết hộ.
Vậy vần đề học vấn của Nguyễn Tất Thành, phần chữ Hán là chắc chắn, vì cha là Phó bảng Nguyễn Sinh Huy, bạn học của Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh... Còn việc học ở các trường Đông Ba, Quốc học, dường như không lấy gì làm chắc lắm.


Nghi vấn thứ ba: Nguyễn Tất thành đến Paris năm nào?

1- Trong thời gian ở Luân Đôn, Nguyễn Tất Thành trao đổi thư từ thường xuyên với Phan Châu Trinh, gọi cụ Phan là Hy Mã nghi bá đại nhơn (Hy Mã là tên hiệu của Phan Châu Trinh, nghi bá là bác kính) và tự xưng là cuồng điệt Nguyễn Tất Thành (cuồng điệt là người cháu hăng say). Vì Phan Châu Trinh bị theo dõi rất kỹ, loạt thư này không qua mắt được mật thám, đó là một trong những lý do xác định khoảng thời gian 1914-1918, Nguyễn Tất Thành sống ở Luân Đôn. 
2- Mật báo tìm thấy thẻ thư viện mang tên Nguyễn Ái Quốc, ghi năm 1919. (Thu Trang, Rapport ký tên Jean, in trong phần Phụ lục).

3- Nhưng Hồ Chí Minh tuyên bố khác hẳn, dưới ngòi bút Trần Dân Tiên, ông viết:
Thế giới đại chiến bùng nổ. (....) Anh Ba đến nói với tôi: "Xin từ biệt anh Nam"
- Anh đi đâu?
Tôi đi Pháp (...)
Sau khi rời Luân Đôn, anh Ba viết thư cho tôi. Đại ý thế này:
"Tôi đã gặp nhà ái quốc Phan Châu Trinh. (...) Tôi cũng gặp luật sư Phan Văn Trường và những người khác. Tôi nói với họ: Trong khi vua Duy Tân nổi dậy ở Huế, nhân dân Thái Nguyên và nhiều nơi khác khởi nghiã, thì chúng ta phải làm gì chứ?" (TDT, trang 30-31)

Mâu thuẫn: Đại chiến thứ nhất bùng nổ năm 1914. Vua Duy Tân nổi dậy, 1916 và khởi nghiã Thái Nguyên, 1917. Vậy nếu Tất Thành sang Paris khi đại chiến bùng nổ (1914) thì làm sao đã biết được những biến cố xẩy ra năm 1916 và 1917?
Có lẽ Hồ Chí Minh dùng năm 1914, chỉ với hậu ý muốn chứng minh chính mình đã dựng nên hội Người An Nam yêu nước, chính mình là tác giả những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc, chính mình chủ động đưa ra ý kiến về bản Thỉnh Nguyện ở Hội nghị Hoà Bình Versailles, năm 1919, và việc mình viết được những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc là do đã ở Pháp từ 1914 và hết sức cố gắng học tiếng Pháp.

Trần Dân Tiên viết về Hội Nghị Hoà Bình và bản Thỉnh Nguyện thư như sau:
" Họ đến để yêu cầu độc lập và tự do. Trong số đó, người ta thấy có ông Nguyễn Ái Quốc (tức là anh Ba). (...) Ông Nguyễn tổ chức nhóm người Việt Nam Yêu Nước ở Pa-ri và ở các tỉnh Pháp. Với danh nghiã của tổ chức này, ông đã đưa những yêu cầu ra trước hội nghị Véc-Xây(...) Cũng nên nhắc lại ý kiến đưa yêu cầu do ông Nguyễn đề ra nhưng lại do luật sư Phan Văn Trường viết, vì lúc bấy giờ ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp. Cũng nên nhắc lại là ông Phan Châu Trinh và ông Phan Văn Trường không tán thành hoạt động của nhóm Việt nam Yêu nước, vì các ông ấy cho nhóm thanh niên là trẻ con" (TDT, trang 32)
Trong đoạn này có một câu Hồ Chí Minh nói thật về bản Thỉnh Nguyện thư: luật sư Phan Văn Trường viết, vì lúc bấy giờ ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp.

Và đoạn sau này, cũng rất đáng lưu ý:
"Lúc ấy, ông Nguyễn là một người yêu nước quyết tâm hy sinh tất cả vì Tổ quốc; nhưng ông Nguyễn lúc đó rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là Công hội, thế nào là bãi công và thế nào là chính đảng" (TDT, trang 34).
"Ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường viết thay. Ông Trường viết giỏi, nhưng không muốn ký tên. Mà chính ông Nguyễn đã phải ký tên những bài báo.
"Nhược điểm về tri thức làm ông Nguyễn rất khó chịu. Nhất là ông Trường không viết tất cả những điều ông Nguyễn muốn nói. Vì vậy, ông Nguyễn bắt tay vào việc học làm báo.
Thường lui tới toà báo "Dân Chúng", ông làm quen với những người Pháp khác trong đó có chủ bút tờ "Đời sống thợ thuyền". Cũng như ông Lông-ghê, người chủ bút này cũng rất đáng mến. Ông bảo ông Nguyễn viết tin tức cho tờ báo của ông. Biết rằng không thể nhờ ông Trường viết mãi, ông Nguyễn nói thật là mình cón kém tiếng Pháp. Người chủ bút nói: Điều đó không ngại, có thế nào anh viết thế ấy. Tôi sẽ chữa bài của anh trước khi đưa in. Anh không cần viết dài, năm, sáu dòng cũng được". Ông Nguyễn bắt đầu viết rất khó khăn. Tin tức về Việt nam, ông Nguyễn không thiếu. Ông thiếu nhất là văn Pháp (...) Khi thấy viết đã bớt sai lầm, ông chủ bút bảo ông Nguyễn: "Bây giờ anh viết dài hơn một tý, viết độ bảy tám dòng". Ông Nguyễn viết bảy, tám dòng. 
Dần dần, ông Nguyễn có thể viết cả một cột báo và có khi dài hơn. Lúc bấy giờ người chủ bút bạn thân của ông Nguyễn khẽ bảo:"Bây giờ anh viết ngắn lại. Viết từng này hoặc từng này dòng. Không viết dài hơn." (Trần Dân Tiên, trang 35- 36).

Phần thành thật là ông đã công nhận lúc ở Pháp, ông chưa biết gì về chính trị, tiếng Pháp kém và muốn học để tự viết báo lấy. Và cũng lại có chỗ không thành thật, vì ông đã nâng thời điểm ông đến Pháp từ 1919 lên 1914.
Những người dạy tiếng Pháp cho Nguyễn Tất Thành, ngoài Phan Văn Trường, còn có Nguyễn Thế Truyền và có lẽ Nguyễn An Ninh nữa. Nhiều mật báo nói đến việc ngày nào Thành cũng gặp Truyền, có khi mấy tiếng đồng hồ. Nhưng Hồ Chí Minh chỉ nhắc đến Phan Văn Trường mà không nói đến hai người kia vì Nguyễn Thế Truyền sau chống Cộng và Nguyễn An Ninh, vô chính phủ và thân với nhóm Đệ Tứ.

Nguyễn Tất Thành chính thức nhận tên mình là Nguyễn Ái Quấc từ Hội nghị Tours.
Hémery viết "Nguyễn xoay sở để được mời đi dự Đại Hội đảng Xã hội ở Tours, nhân danh đại biểu khu 13 của nhóm Xã hội Đông dương ma (fantomatique). Ngày 27/12 anh phát biểu ủng hộ kiến nghị Cachin-Frossard, ủng hộ việc đảng Xã hội gia nhập Quốc Tế cộng sản" (Hémery, trang 46).
Tại hội nghị Tours (bắt đầu ngày 27/12/1920), Nguyễn Tất Thành xuất hiện công khai dưới tên Nguyễn Ái Quốc "ông Nguyễn lắng nghe nhưng không hiểu rõ lắm, vì người ta thường nhắc đi nhắc lại những tiếng, những câu: chủ nghiã tư bản, giai cấp vô sản, bóc lột, chủ nghiã xã hội, cách mạng (...) Ông Nguyễn nhức đầu vì khó hiểu" (TDT, trang 46-47). Tuy không hiểu rõ những bàn cãi chính trị trong hội nghị Tours, Nguyễn Tất Thành bỏ phiếu cho Đệ Tam quốc tế vì "Đệ Tam quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ" (TDT, trang 49). Đoạn này ông cũng thành thực, nhưng trong cuốn Hồng Hà sẽ bị bỏ hẳn và thêm vào những trang dài nói là ông đã nghiên cứu kỹ lý thuyết Mác-Lê trước khi dự Hội nghị Tours.

4- Việc Tất Thành sang Pháp năm 1914, khó tin, cho nên khi viết cuốn Thời thanh niên của bác Hồ (nxb Thanh Niên, 1976), Hồng Hà được lệnh sửa lại:
"Anh bỏ nghề phụ bếp ở Luân Đôn, sang Pháp, đấy là vào cuối năm 1917" (Hồng Hà, trang 38)
"Vừa tới Pa-ri, anh Nguyễn Ái Quốc đến ở nhà số 6 phố Vi-la đề Gô-bơ-lanh [6 villa des Gobelins], một phố yên tĩnh của quận 13. Đây là nhà của luật sư Phan Văn Trường. Cùng ở có cụ Phan Châu Trinh mà anh Nguyễn Ái Quốc có thư từ thăm hỏi luôn khi anh còn ở Luân Đôn. Ông Trường nhường cho anh một buồng con trên gác ba, vừa đủ kê một cái bàn, một cái giường và một cái tủ con. Dạo ấy, nhà số 6 phố Vi-la đề Gô-bơ-lanh là một trung tâm gặp gỡ của nhiều Việt kiều ở Pa-ri. Có khi bà con đến chơi ăn ở liền mấy ngày (...) Cụ [Phan Châu Trinh] làm nghề ảnh tư ngay tại nhà số 6. Để sống, anh Nguyễn - cả người Việt lẫn người Pháp quen gọi anh Nguyễn Ái Quốc như thế - cùng với một kiều bào khác là Tuyết giúp việc cho cụ Phan đồng thời học nghề rửa ảnh và phóng đại ảnh. 
Cụ Phan là một nhà yêu nước chân thành, nổi tiếng ở Việt Nam và nước ngoài. Cụ hơn anh Nguyễn 19 tuổi, Còn ông Trường vốn là thông ngôn, học đến tiến sĩ luật học, làm nghề luật sư ở Pa-ri. Ông giỏi tiếng Pháp, vào quốc tịch Pháp, có nghiên cứu chủ nghiã Mác, quen biết nhiều trí thức và nhà chính trị Pháp. Điều mà anh Nguyễn băn khoăn hỏi hai người lúc đó làm gì cho đất nước trong khi đồng bào khao khát cách mạng thì không được trả lời thoả đáng, rõ ràng.
Anh Nguyễn vừa làm nghề rửa ảnh vừa chăm chỉ học thêm tiếng Pháp với ông Trường" (Hồng Hà, trang 19).
Trích đoạn này cho một số thông tin đáng lưu ý. Đặc biệt câu: "Vừa tới Pa-ri, anh Nguyễn Ái Quốc đến ở nhà số 6 phố Vi-la đề Gô-bơ-lanh [6 villa des Gobelins].

Chính câu này đã xác định ngày tháng Nguyễn Tất Thành đến Paris:
Bởi vì căn nhà số 6 villa des Gobelins chỉ có sau khi Phan Văn Trường giải ngũ, tức là từ tháng 4/1919, ông về sống tại Paris, như đã ghi trong hồi ký. Khoảng 1913-1914, Phan Văn Trường ở Rue Bertholet. 1914-1915 đi tù. Và sau khi ra tù, ông làm việc trong Công Binh Xưởng ở Toulouse. Tóm lại, nếu Nguyễn Tất Thành đến Paris ở ngay nhà Phan Văn Trường, thì chỉ có thể là sau tháng 4/1919 (Phan Văn Trường giải ngũ, lên Paris) và trước tháng 6/1919 (Nguyễn Tất Thành đem bản Thỉnh nguyện đến Versailles). 

Vậy, có thể xác định chắc chắn rằng: Nguyễn Tất Thành đến Pháp trong tháng 5 hoặc tháng 6 năm 1919.
Nguyễn Tất Thành ở nhà số 6 villa des Gobelins của Phan Văn Trường hai năm, từ tháng 5- 6/1919, đến ngày 14/7/1921, Thành dọn tới số 9, Impasse Compoint, khu 17 (Hémery, trang 48). Đây là khu phố nghèo dành cho thợ thuyền, Thành tiếp tục nghề ảnh ở một cửa hiệu gần nhà. Ngày 14/3/1923, Thành dọn về trụ sở báo Le Paria (Người cùng khổ), số 3 phố Marché des Patriaches (HH, trang 187).
Khi đã xác định được đúng thời gian Nguyễn Tất Thành ở Pháp. Chúng ta có thể đi sâu hơn nữa vào tổ chức Việt kiều, vào sự phát sinh cái tên Nguyễn Ái Quấc và những công trình Hồ Chí Minh nhận là của ông nhưng lúc đó ông chưa có mặt tại Paris.
 

Hội Đồng Bào Thân Ái (La Fraternité des Compatriotes) 

Phan Văn Trường viết:
"Một ngày trong năm 1912, sau khi đưa đám một thiếu niên An Nam, học sinh trường Parangon [trường Nguyễn Thế Truyền học], một số đồng bào đưa ra ý kiến lập hội Ái hữu Sinh viên An Nam tại Pháp (Association amicale des étudiants annamites en France). Họ đề nghị tôi nghiên cứu dự trình để thực hiện càng sớm càng tốt. Tôi trả lời ngay: "Làm thì dễ, Pháp có luật 1/7/1901, tự do lập hội. Nhưng luật không chưa đủ, còn phải tính đến chính sách thuộc địa nữa. Các bạn nên biết, nếu ta lập hội mà không có phép, chính quyền thuộc địa sẽ tìm cách dẹp ngay." (PVT, trang 87). Tuy nói vậy, nhưng ông cũng làm:
"Tôi bắt tay vào việc. Viết bản nội quy và thảo một chương trình [hành động] dài. Hội được thành lập trong sự hoan hỉ của đồng bào đã giao phó trách nhiệm cho tôi. Tôi yêu mến đặt tên nó là Thân Ái (La Fraternité). Hội có mục đích:
1- Giúp sinh viên Đông Dương xa gia đình có cơ hội gặp gỡ, kết bạn, đến chơi và giúp đỡ nhau trong trường hợp rủi ro, bệnh hoạn. 
2- Học chung với nhau để trao đổi kiến thức khoa học và văn chương.
Hội Thân Ái mỗi tháng tổ chức nhiều cuộc hội họp, và diễn thuyết." (Hồi ký PVT, chương 13, trang 87-88).

Qua sinh hoạt của hội, Phan Văn Trường gặp Phan Châu Trinh năm 1912. Sau này, người ta thường viết Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường lập hội là không đúng. Người lập hội là Phan Văn Trường.
Hội Đồng bào Thân ái là tế bào đầu tiên của người Việt tại Pháp.
Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh, trở thành hai nhà lãnh đạo của phong trào Việt kiều yêu nước tại Pháp. Vì hoạt động của hội, mà Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh bị bắt năm 1914. Hội Đồng bào Thân ái phải ngưng hoạt động. Phan Văn Trường viết:
"Hội hoạt động công khai không mờ ám. Chúng tôi cũng biết là có mật thám trà trộn trong đám hội viên, nhưng không sao, càng tỏ cho họ thấy là hội của chúng tôi theo đuổi những mục đích hoàn toàn hợp pháp và đáng khuyến khích. (...) Bọn mờ ám vẫn rình rập, với thế lực trong chính quyền thực dân, thế nào họ cũng phá. Hội của chúng tôi bị tẩy chay, họ phao tin hội này là ổ cách mạng, gián tiếp cảnh cáo hội viên nếu cứ cứng đầu không chịu bỏ thì có ngày sẽ phải hối hận". (PVT, trang 89).
Theo mật báo của mật thám thì Hội Đồng Bào Thân Áiphải giải tán vào năm 1916 (Thu Trang, trang 43). Tuy nhiên thông tin này chưa chắc đã đúng. Có thể hội phải giải tán sớm hơn, từ khi hai vị thủ lĩnh bị bắt vào tháng 9/1914.
Hội Người An Nam yêu nước ra đời.

Hội Người An Nam Yêu Nước (Le Groupe des Patriotes Annamites) ra đời.
Sự xuất hiện bút hiệu Nguyễn Ái Quấc. 

Về mặt chính thức, Hội Người An Nam Yêu Nướcthành lập sau thế chiến, tức là sau khi Phan Văn Trường giải ngũ trở về Paris vào tháng 4/1919. Căn nhà 6 villa Gobelins, quận 13, của ông trở thành trụ sở của hội, theo mật báo Pháp.
Nhưng về mặt không chính thức, có thể hội đã hình thành rất sớm, tại Toulouse, do Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền thành lập. Phan Văn Trường, sớm để ý đến Nguyễn Thế Truyền, 12 tuổi, được đem về Pháp học, ở trường Parangon, năm 1910. Hai người sau này lại cùng ở Toulouse từ 1916 đến 1919. Thời gian này Phan Văn Trường ở trong quân đội, làm thông ngôn cho lính thợ và Nguyễn Thế Truyền đang học kỹ sư.
Một mật báo cho biết:
"Hội những người An Nam yêu nước đã được thành lập từ nhiều năm nay do hai nhà cách mạng chống Pháp là Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh. Đó là một nhóm hoạt động rất tích cực.
Trong suốt thời kỳ chiến tranh (1914-1918), trụ sở Hội này là nơi hẹn của rất nhiều binh lính An Nam và hạ sĩ quan cùng sĩ quan có cấp bực. Từ hồi hai người trên, Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh, bị bắt vì tội chống an ninh quốc gia vào năm 1915, tuy Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh vẫn giữ vai trò lãnh đạo Hội một cách không chính thức, nhưng thực tế thì đã chính là do Nguyễn Ái Quốc" (Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925, Đông nam Á, Paris, 1983, trang 44)
Mật báo này rất quan trọng, vì nó cho biết:

1- Như vậy cái tên Nguyễn Ái Quấc đã xuất hiện trong khoảng 1914-1918, ít nhất là từ 1918.Tức là trước khi Nguyễn Tất Thành sang Paris rất lâu (Tất Thành sang Paris khoảng tháng 5-6/1919, như trên đã chứng minh).

2- Hội Người An Nam Yêu Nước được thành lập trong khoảng 1914-1918. Như vậy, chỉ có thể ở Toulouse, nơi Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền sống từ 1916 đến 1919. Trong thời gian này Phan Văn Trường đã bị buộc tội xúi giục binh lính An Nam làm loạn, viết đơn xin giải ngũ.

3- Ba người gần Ninh nhất là Lê Văn Thử tác giả Hội kín Nguyễn An Ninh (Nam Việt, 1949), Phương Lan Bùi Thế Mỹ-Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh 1899-1943 (Thúy Phương, Sàigòn, 1970) và Hồ Hữu Tường- 41 năm làm báo (Đông Nam Á, Paris, 1984), đều ghi Nguyễn An Ninh sang Pháp lần đầu năm 1918.
Vậy cái tên Nguyễn Ái QuấcQuấc chứ không phải Quốc, là dấu ấn của Ninh. Ninh người Nam, chỉ có người Nam, theo Huỳnh Tịnh Của, mới viết Quấc. Trường và Truyền người Bắc, không viết như thế.

4- Bộ Thuộc địa bắt đầu theo dõi Nguyễn Ái Quấc vào khoảng tháng 10/1919. Báo cáo của Jean, tháng 10/1919, có đoạn sau:
"1- Ông Guesde nói phải, có Nguyễn Ái Quốc tên thật là Nguyễn Văn Quốc, người Sàigòn, học ở bên này đã lâu lắm. Song chưa biết tên ấy ở đâu - Phải quen Phan Văn Chường thời mới biết tên ấy được.
2- Xin ông làm ơn hỏi Sureté [An ninh] Paris xem Chường có ở Paris bây giờ không, hay là đi voyage như lời sergent interp. Khương nói và cho tôi chỗ hắn ở (số nhà và phố)" (Thu Trang, trang 54)
Theo báo cáo này, người mật thám tên là Jean, đến tháng 10/1919, chưa xác định được nhân dạng Nguyễn Ái Quốc, lúc thì coi Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn An Ninh [người Sàigòn], khi thìcoi Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Thế Truyền [học ở bên này đã lâu lắm], và chưa biết địa chỉ của Hội người An Nam yêu nước là nhà Phan Văn Trường, số 6 villa des Gobelins.

5- Về hoạt động của nhóm, Daniel Hémery viết:
 "Từ mùa thu năm 1919, Nhóm Những Người Yêu Nước có cột viết trên các báo Popupaire, Humanité, Libertaire, báo của CGT, La vie ouvrière và Le Peuple. Họ diễn thuyết, tổ chức những buổi họp mặt công cộng, với chủ đích bảo vệ quyền lợi Đông Dương trong nền văn chương chống thực dân theo cách của những nhà văn Indonésia (Nam Dương) hay Ấn độ. Cuối năm 1919, Nguyễn Ái Quốc, theo lời khuyên của Paul Vigné d'Octon là người hết sức chống chế độ thuộc địa, làm việc ráo riết tại thư viện Quốc gia, sửa soạn ra cuốn sách Les Opprimés (Những kẻ bị đàn áp), có thể là sơ thảo văn bản tương lai Procès de la Colonisation, và nghiền ngẫm dự định dịch các tác phẩm tây phương, như L'Esprit des lois [Vạn pháp tinh lý] sang Quốc ngữ." (Hémery, trang 45)
Câu này xác định hoạt động của nhóm Ngũ Long trên báo chí và diễn thuyết. Nhưng Hémery nhầm Nguyễn An Ninh với Nguyễn Tất Thành:
Trong các bài viết và diễn thuyết được ghi lại, Ninh thường nhắc đến kinh nghiệm cần học hỏi của Ấn Độ, Nam Dương. Ninh chơi thân với Paul Vigné d'Octon, nhóm anarchiste và Ninh viết cho báo Le Libertaire. Ninh viết cuốn La France en Indochine chống Pháp mãnh liệt in năm 1924, mang về Việt nam trong chuyến đi với Phan Châu Trinh, bị tịch thu hết sạch (nhưng có thể đọc bài tiểu luận La France et L'indochine đăng trên Europe số 31, ra ngày 15/7/1925 là thấy rõ nội dung). Ninh dịch Contrat social, (Dân ước) của Rousseau và chắc có ý dịch cảL'Esprit des lois [Vạn pháp tinh lý]của Montesquieu nữa. Còn Tất Thành, cuối năm 1919, mới sang Pháp vài tháng, đang học tiếng Pháp, làm sao mà nghĩ đến chuyện viết sách và dịch sách được?

6- Một mật báo khác:
"Vào những năm 1920-1921, Hội những người An Nam yêu nước" đặt trụ sở tại số 6 Villa des Gobelins. Số người lãnh đạo của Hội này, đã từng làm công việc tuyên truyền chống Pháp một cách rất mạnh nói chung, và đặc biệt chống ông Sarraut (toàn quyền Đông Dương) nói riêng. Những người này cho là ông ta đã gây nên nhiều nỗi đau khổ tại nước họ.
Tháng 10/năm 1921, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Khánh Ký, Lê Văn Thuyết và Hai Tân đã quyết định đề nghị ám sát ông Sarraut (...) Nhưng nhờ sự can thiệp của Phan Châu Trinh mà dự án này không đem ra thi hành" (Thu Trang, trang 45)
Những thông tin trong mật báo này khá đúng, trừ việc Phan Văn Trường định ám sát Sarraut là sai. Phan Văn Trường là người rất thận trọng, ghét bạo lực, hành động công khai, ông đối lập với Sarraut bằng luật pháp và ngòi bút, không bằng bạo lực. Nguyễn Thế Truyền có viết bài đả kích Sarraut, sôi nổi hơn Phan Văn Trường.

Tác giả những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc là ai ?
Trong thư ngày 27/3/23, cụ thân sinh ra ông Nguyễn Thế Truyền khuyên con:"chớ bắt chước Nguyễn Ái Quốc làm báo nói lăng nhăng, chớ chơi với Nguyễn Ái Quốc" (ĐHT, trang19). Như thế, cái tên Nguyễn Ái Quốc, tuy là tên chungtên ma, nhưng đã thành tên riêng của một người: Nguyễn Tất Thành. Và sự bí mật về việc ai viết những bài ký tên Nguyễn Ái Quấc gần như toàn diện, đến cả cụ thân sinh ra Nguyễn Thế Truyền cũng không biết con mình viết bài ký tên Nguyễn Ái Quấc!
 
Hồ Chí Minh hiển nhiên nhận mình là Nguyễn Ái Quốc tác giả các bài báo. Nhưng nhiều dữ kiện chứng minh ngược lại.

1- Trước hết, về phiá chính quyền Pháp:
- Ngày 12/9/1923 (sau khi Nguyễn Tất Thành sang Nga), Tổng Thanh Tra quân đội Đông Dương và người Đông Dương gửi thông tri cho Toàn Quyền Đông Dương, có đoạn:
"Les articles publiés sous le nom de Nguyễn Ái Quốc ne sont pas de lui ou ont été tout au moins l'objet des plus sérieures retouches. Cet annamite parle et écrit insuffisament le français pour rédiger tout ce qui paraît sous son nom" (Contrôleur général des troupes indochinois et des Indochinois à Gouverneur général de L'Indochine le 12/9/1923) (Slotfom Série I, Carton II - ĐHT, trang124) (Những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc không phải do y viết hoặc đã được sửa chữa rất nhiều. Khả năng nói và viết tiếng Pháp của tay An Nam này không đủ để viết những bài y ký tên).
- Về phía mật thám Pháp: "Về những bài báo, có một vài mật thám đã ghi là do chính Phan Văn Trường viết và ký tên Nguyễn Ái Quốc" (Thu Trang, trang 95)

2- Bất cứ ai cũng thấy là một người mới học tiếng Pháp như Nguyễn Tất Thành không thể viết những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc. Theo Hoàng Xuân Hãn: "bí danh này có thể là tên tượng trưng của tất cả người Việt (Nguyễn là họ thông thường của nhiều người Việt, chứ không phải chỉ là họ của Tất Thành). Nguyễn yêu nước, ba chữ ấy ứng vào tiếng Pháp: Groupes des patriotes Annamites thấy ký ở dưới truyền đơn: Bản yêu cầu tám điểm. Có lẽ một mặt vì họ Nguyễn mà mật thám coi đó là tên của Nguyễn Tất Thành. Rồi sau Nguyễn Tất Thành cũng mang tên ấy một thời gian mà thôi" (Thu Trang, trang 114)

- Về bản Thỉnh nguyện thư gửi Hội nghị Hoà bình năm 1919:
Mật thám ghi:"Bản yêu cầu gửi cho Hội Nghị Hoà bình là do Phan Văn Trường viết. Những điểm yêu sách đã do Phan Châu Trinh dịch sang chữ An Nam" (Thu Trang, 104)
- Còn Hoàng Xuân Hãn cho rằng: Phan Châu Trinh viết phần Hán văn, Phan Văn Trường dịch ra Pháp văn, Nguyễn Tất Thành làm bài lục bát Việt nam yêu cầu ca. (Thu Trang, trang 9).

Nhưng qua văn bản, chúng tôi có thể xác định: Phan Văn Trường viết thẳng phần tiếng Pháp, vì đây là chủ đề một buổi diễn thuyết của ông năm 1913 (Les revendications indigènes - Những thỉnh nguyện của người bản xứ), như đã nói ở trên. Lời văn trong bài phù hợp với lối viết của Phan Văn Trường: Kín đáo, kiêu kỳ, mỉa mai, thâm thuý. Phan Châu Trinh dịch sang Hán Văn. Nguyễn Tất Thành làm bài thơ (đúng hơn là vè). Bài này, Thu Trang chụp được bản chép tay, cho thấy Tất Thành không biết làm thơ và trình độ quốc ngữ còn kém. (Xem phần phụ bản ở dưới, chúng tôi có trích một đoạn).

3- Hồ Hữu Tường là người đầu tiên cho biết về nhóm Ngũ Long, có vài chi tiết sai nhưng đại thể là đúng: "Khi ra rù, hai cụ được Nguyễn Thế Truyền, học xong ở Toulouse lên hiệp tác. Đầu tháng bẩy cụ Tây Hồ móc nối được với Nguyễn Tất Thành, lúc đó ở London, nên viết thơ gọi về Paris. (...), Đến 1918, nhóm nầy lại được Nguyễn An Ninh ở Sài gòn sang nhập bọn. 
Người ngoài cho đó là năm con Rồng, bởi người Việt xưng mình là "con Rồng". Linh hồn của nhóm "Ngũ long" nầy là cụ Phan Châu Trinh. 
Và khi chường ra công chúng, nhứt là khi viết báo chống thực dân, thì ý kiến thường do cụ Tây Hồ xướng ra, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh thảo thành tiếng Pháp, và giao cho Tất Thành đem giao cho nhà báo với một bút hiệu chung. 
Về cái bút hiệu nầy, có một giai thoại kể ra cũng buồn cười. Lúc ban đầu, các cụ chọn bút hiệu là Nguyễn Ố Pháp. Nghiã là thằng Nguyễn ghét người Pháp. Tên nầy được độc giả Pháp hoan nghinh lắm, vì giọng nói dí dỏm của người Việt nam, lại thêm câu văn của Ninh và Truyền gọt giũa nên có duyên. Độc giả gởi thơ đến nhà báo hỏi Nguyễn Ố Pháp là ai và tên ấy có nghiã gì? Các cụ buộc lòng phải dịch cho ngay tình. Các bạn Pháp phản đối cái tên cực đoan dễ ghét, mà tiếng Pháp gọi là sô vanh (chauvin), và đề nghị đổi đi. Từ đó bút hiệu Nguyễn Ố Pháp bị đổi là Nguyễn Ái Quốc. Về sau bốn vị kia tách ra, tên Nguyễn Ái Quốc còn lại riêng cho Hồ Chí Minh". (Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, Đông Nam Á, Paris, 1984, trang 18-19).

Hồ Hữu Tường kể tiếp một giai thoại khác:
 Bộ trưởng Thuộc địa tống trát đòi "Nguyễn Ái Quốc đến cấp tốc tại Bộ thuộc địa gặp ông bộ trưởng", nhưng lại đem trát giao tận nhà Phan Châu Trinh. Cụ Tây Hồ gọi Tất Thành đến giao tờ trát, Tất Thành cầm trát đến gặp ông bộ trưởng Pháp và câu đầu nói xỏ rằng "Nguyễn Ái Quốc là tôi. May mà trát gởi đến nhà chú tôi là Phan Châu Trinh, nên được chú tôi đưa lại. Không thì lạc mất rồi! (...) Ngày ấy, cụ Tây Hồ xỏ Tây tế nhị xong, xuống chợ Mouffetard mua lòng lợn về mời đủ năm Rồng xơi một tiệc "khải hoàn". (Trang 19-20).

Hồ Hữu Tường viết tiếp về chương trình Ngũ Long về nước hoạt động:
"Theo lời cụ Phan Văn Trường thuật lại, thì năm 1922, khi Nguyễn An Ninh sắp sửa về nhà mà sáng lập tờ báo La Cloche fêlée, thì cụ Phan Châu Trinh có đưa ra một phân công, gọi là "ngũ long tề khởi". Tại quê nhà, bầu không khí thực dân và phong kiến còn quá nặng, Ninh lãnh sứ mạng đem tư tưởng dân quyền của Pháp ra mà "dĩ di diệt di". Nên chi báo của Ninh nêu lên đường lối là "cơ quan tuyên truyền cho tư tưởng Pháp" (organe de propagande des idées françaises). Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Thế Truyền thì tựa vào đảng xã hội, sau biến thành đảng cộng sản, nhưng Thành thì thiên tả mà đi vào lao động, Truyền thì đứng trên lập trường "quốc gia mượn thế lực cộng sản để mưu đồ sự giải phóng dân tộc". 
Còn hai cụ Phan thì chờ Ninh xung phong, dọn dẹp chông gai bên nhà, hai cụ sẽ về góp sức mà tiến lên gây một phong trào dân chủ. Nhưng mà theo kế hoạch nầy, phân ra thì có, mà tụ lại thì chưa. Năm 1925, quả Ninh có rước hai cụ Phan về xứ. Nhưng sang năm 1926, cụ Tây Hồ lìa trần, Ninh lo tổ chức quần chúng, giao cho cụ Trường đứng mũi chịu sào tờ L'Annam. Rồi Ninh vào tù, cụ Trường ba chìm bẩy nổi, bị án tù, sang Paris chịu vào khám.Còn Tất Thành mang tên chung là Nguyễn Ái Quốc, theo cộng sản luôn, một đi không trở lại.
Nguyễn Thế Truyền vào đảng cộng sản Pháp, mượn phương tiện mà thành lập Việt Nam Hồn, sau đổi lại là Hồn Việt nam, rồi Phục Quốc... " (HHT, sđd, trang 24-25).

Về bản Le Procès de la colonisation française (Bản án chế đô thực dân Pháp)
 
Tác giả là Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Thế Truyền viết tựa. Nhưng thực ra ai viết ?

1- Ngô Văn viết:
"Sau khi Phan Châu Trinh khởi hành về Sàigòn, vào tháng 5 năm 1925 một luận văn châm biếm nẩy lửa do Thư điếm Lao động (Librairie du Travail) phát hành và lập tức bị cấm ở Đông Dương. Đó là tập Bản án chế độ thực dân Pháp (Procès de la colonisation française) ký tên Nguyễn Ái Quốc, nhưng có thể là do Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền viết" (Ngô Văn, trang 42).

2- Trần Dân Tiên chỉ viết một câu ngắn gọn về văn bản này:
"Ông Nguyễn chỉ viết một quyển sách duy nhất là quyển: "Bản án chế độ thực dân Pháp"; quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia. Đầy hăng hái, ông Nguyễn viết cả vở kịch "Rồng tre". (Trần Dân Tiên, trang 37)."
Tại sao Hồ chí Minh không nói rõ là ông đã viết Le Procès trong hoàn cảnh nào? Nhất là lại in sau khi ông đi Nga hai năm. Lý do dễ hiểu: có lẽ Hồ Chí Minh chưa đọc Le Procès khi ông viết những dòng này năm 1947, cho nên ông mới viết câu: "quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia".

 3- Vậy tạm đưa ra giả thuyết: Nguyễn Tất Thành không đủ khả năng tiếng Pháp để viết tác phẩm này. Có thể Nguyễn Thế Truyền đã tập hợp những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc, sửa đổi rồi viết tựa. Văn phong trực tiếp, đả kích mạnh mẽ, không thâm trầm kín đáo như văn Phan Văn Trường, vậy tác giả có lẽ là Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế Truyền. Tuy nhiên cần phải khảo sát văn bản các bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc, mới có thể xác định được.

4- Còn vở kịch Rồng tre không biết ai viết (có thể là Nguyễn An Ninh), nhưng chắc chắn không phải Tất Thành, vì chữ Rồng ở đây có ý tự trào, ngạo nghễ ám chỉ đám Ngũ Long, tuy là đồ chơi mà... là Rồng, tức là chơi lối... Rồng (Đế vương). Lại vừa có ý nhạo vua Khải Định là Rồng mà...rồng tre (đồ chơi). Ý nghĩa thâm thúy như thế, nhưng chắc ông Hồ không hiểu rõ, nên mới nhận là mình viết. Bởi nếu ông viết thì không thể viết như thế, khác nào lậy ông tôi ở bụi này: đã tự coi mình là Nguyễn Ái Quốc duy nhất, thì làm sao lại chấp nhận có các con Rồng khác?

Hội Liên hiệp thuộc địa (Union Intercoloniale) và báo Le Paria (Người cùng khổ)

Hội Liên hiệp Thuộc địa -là cơ sở quan trọng thứ nhì, đối với người Việt tại Pháp, sau Hội Người An Nam Yêu nước - quy tụ đại diện những nước nhược tiểu bị Pháp đô hộ, họp lại để cùng chống thực dân. Hội ra tờ báo Le Paria (Người cùng khổ).

Trần Dân Tiên viết về vai trò của ông trong tờ báo này như sau:
 "Để mở rộng việc tuyên truyền đến các thuộc địa, ông Nguyễn và các đồng chí của ông ra tờ báo Người cùng khổ (Le paria) do ông là chủ bút kiêm chủ nhiệm (...) Ông Nguyễn kiêm cả viết, chủ nhiệm, chủ bút, chữa bài, thủ quỹ, xuất bản và liên lạc" (Trần Dân Tiên, trang 44).
Hồng Hà: "Báo Người cùng khổ, cơ quan ngôn luận của vô sản thuộc địa do anh Nguyễn Ái Quốc sáng lập, làm chủ bút kiêm chủ nhiệm, phát hành trong những năm từ 1922 đến 1924"(Hồng Hà, trang 150)
"Anh Nguyễn viết khỏe nhất và nhiều nhất, có số anh viết tới ba, bốn bài. Chính từ đây và từ năm 1922 này, người đọc được thấy những bài báo đầy tính chiến đấu mãnh liệt của anh Nguyễn" (Hồng Hà, trang 156)
Chỉ cần lướt qua tờ Le Paria cũng thấy: đây là tờ báo chống thực dân một cách trào phúng và thâm thúy, kiểu "gậy ông đập lưng ông", phải đủ những điều kiện: có óc châm biếm, có uy-mua Pháp, thâm hiểu văn hoá Pháp và viết tiếng Pháp hay mới viết được. Nguyễn Ái Quấc làm đại diện cho Đông Dương là đúng lắm, vì bút danh Nguyễn Ái Quấc đã nổi tiếng trên báo chí Pháp từ mấy năm nay. Nhưng những bài ký tên Nguyễn Ái Quấc có phải là Tất Thành viết không? Hay chủ yếu vẫn là Thế Truyền, An Ninh, Văn Trường? Trong một bài bênh vực Nguyễn Ái Quấc, Nguyễn Thế Truyền viết: "Tiếng nói của Nguyễn Ái Quốc là tiếng nói của toàn dân Việt Nam" hình như ngụ ý điều đó.

Hội Liên Hiệp thuộc địa (Union intercoloniale) được sáng lập tháng 7/1921, tại Paris. Mỗi thuộc địa có một đại diện trong Ban chấp hành. Trụ sở: số 9 rue Vallette, sau đổi đến số 3 rue Marché des Patriarches.
Tờ báo của hội: Le Paria (Người cùng khổ), ra hàng tháng, dưới sự bảo trợ của nhà văn Henri Barbusse. Báo viết tiếng Pháp, tên in ba thứ chữ: Pháp, Hán và Ả Rập, tồn tại 4 năm, ra được 38 số: số 1, ra ngày 1/4/1922 và số 38 ra ngày 1/4/1926.

Thành phần của Hội khi mới thành lập: Marie Bloncourt, luật sư, đại diện Dahomey (Phi Châu) làm Tổng thư ký. Nguyễn Ái Quốc là đại diện Đông Dương. Jean Baptiste, đại diện Guadeloupe, v.v...
Lúc đầu có độ 200 hội viên. Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh đều là hội viên từ 1922, cả ba đều đã diễn thuyết nhiều lần tại trụ sở của Hội hoặc ở Hội trường hội Bác Học (Salle des Sociétés savantes) đường Danton. Ví dụ, ngày 18/2/1923, Phan Văn Trường diễn thuyết so sánh sự cai trị Việt Nam của Pháp và của Trung Hoa. Nguyễn An Ninh diễn thuyết nhiều lần tại Hội trường hội Bác Học. Ngày 17/10/1924 Nguyễn Thế Truyền diễn thuyết về Đông Dương dưới sự cai trị của Albert Sarraut và Martial Merlin. Mỗi lần Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh diễn thuyết, Phan Châu Trinh đều đến nghe. (Đặng Hữu Thụ, trang 40)

Số 4, tháng 7/1920, báo Le Paria có 2 bài ký tên Nguyễn Ái Quốc, tựa đề La haine des races vàLes cilivisateurs. Các bài ký tên Nguyễn Ái Quốc đều có ảnh kèm, bài L'Humanité colonialetrong số 6 (tháng 7/1920) có kèm ảnh những người bị xử bắn, và trong bài báo tác giả mỉa mai ghi: đó là hành động của những con người văn minh.(Thu Trang, trang 144).
Bài đầu tiên ký tên Nguyễn Thế Truyền xuất hiện trên Le Paria, số 9 ra ngày 1/12/1922, tựa đề "Un bolchevick jaune" (Một người Bôn-sơ-vích da vàng), nội dung bênh vực Nguyễn Ái Quấc, bị báo La Dépêche Coloniale (Bản tin thuộc địa) đả kích, trong bài Truyền viết, có câu: "Tiếng nói của Nguyễn Ái Quốc là tiếng nói của toàn dân Việt Nam". (ĐHT, trang 42).

Sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga, tên Nguyễn Thế Truyền xuất hiện thay tên Nguyễn Ái Quấc:
Số 21 ra ngày 1/12/1923, bài La vase de Chine (Chiếc bình sứ Trung Hoa), đả kích kịch kiệt bác sĩ Cognacq, nguyên giám đốc học chính Đông dương, về tội hối lộ. Số 22, Nguyễn Thế Truyền nhắc đến lòng yêu nước của Phan Tuấn Phong và Phan Trọng Kiên, anh em ruột của Phan Văn Trường, trong phong trào Đông Du, bị bắt năm 1913. Số 24, đả kích toàn quyền Albert Sarraut đầu độc dân tộc VN bằng rượu và thuốc phiện. Số 27, viết về Phạm Hồng Thái và tiếng bom Sa Điện. Số 28, đả kích Outrey, dân biểu Nam Kỳ, tuyên bố trong quốc hội Pháp không nên áp dụng luật ân xá tại Việt Nam, vì người Việt Nam không biết ân xá là gì. Truyền chê Outrey dốt nát không biết gì vì chín trăm năm trước vua Lý Thánh Tông đã ân xá cho phạm nhân, trong một năm trời làm rét mướt. (ĐHT, trang 43).

Từ ngày 4/11/1923, Nguyễn Thế Truyền thay thế Nguyễn Ái Quốc làm trị sự toà báo. Đầu năm 1925, Nguyễn Thế Truyền trở thành phó tổng thư ký của Hội và chủ bút tờ Le Paria. Trong năm 1925, hầu như số nào cũng có bài của Nguyễn Thế Truyền. Sau số kép 36-37 (tháng 10/1925) toàn bộ viết bài bênh vực Phan Bội Châu, Nguyễn Thế Truyền ra khỏi Le Paria để sửa soạn ra tờ Việt Nam Hồn, tiếng Việt. Không có Nguyễn Thế Truyền, Le Paria chỉ ra được một số chót (số 38, tháng 4/1926) rồi đình bản. (ĐHT, trang 51)

*
Trong thời gian từ 1919 đến 1923, nhóm Ngũ long, qua bút hiệu chung Nguyễn Ái Quấc, rồi từ 1923 đến 1927, chỉ còn lại Nguyễn Thế Truyền ở Pháp, đã tả xung hữu đột, tranh đấu quyết liệt cho sự độc lập và dân chủ của đất nước. Sự phân công có thể như sau: Phan Châu Trinh, lãnh đạo tinh thần; Phan Văn Trường lãnh đạo chính thức. Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh viết nhanh, viết mạnh. Nguyễn Tất Thành phụ trách phần tin tức, việc quản trị Hội Liên Hiệp Thuộc Điạ và cổ động bán báo, in truyền đơn...

Phần lớn những người tham gia kháng chiến chống Pháp, từ Nho học đến Tây học, đều học giỏi nổi tiếng, nhưng đã vất bỏ văn bằng sang một bên để dấn thân. Hồ Chí Minh là một trường hợp đặc biệt, dù con quan, nhưng sớm bỏ học, trình độ quốc ngữ kém (xem bài Việt Nam Yêu Cầu Ca trong phụ bản dưới đây), tiếng Pháp sơ sài, ông đã sống rất cực khổ, làm bồi bếp trong suốt quãng đời thanh niên từ 1911 đến 1919, khi tới Pháp. Tại Pháp cũng chỉ có hai năm ở nhà Phan Văn Trường khu Gobelins là khá, sau này ra Compoint, một khu nghèo nàn thợ thuyền và ông cũng tiếp tục sống rất cơ cực, không kể còn có mặc cảm sâu xa đối với các bạn đồng hành trí thức. Đó là những lý do khiến Nguyễn Tất Thành theo cộng sản, mặc dù ông chưa hiểu rõ lý thuyết cộng sản như thế nào. Sau này, khi lên cầm quyền, việc đầu tiên là ông sẽ bắt mọi người phải kính nể, phải gọi ông bằng Bác, phải cúi đầu trước chân dung ông, và riêng đối với trí thức, ông sẽ dành cho họ những nhục nhằn mà ông đã phải gánh chịu trong suốt cuộc đời niên thiếu.

Phan Khôi, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo... là những người sẽ phải gánh tội của trí thức. Phan Khôi nặng nhất vì đã dám trực tiếp biếm vua: Tội đáng trảm quyết trên phương diện tinh thần. 
 
Hết phần thứ nhất


Phụ bản 
 
Revendications du Peuple Annamite
 
Depuis la victoire des Alliés, tous les peuples assujettis frémissent d'espoir devant la perspective de l'être de droit et de justice qui doit s'ouvrir pour eux en vertu des engagements formels et solennels, pris devant le monde entier par des différentes puissances de l'entente dans la lutte de la Civilisation contre la Barbarie.
En attendant que le principe des Nationnalités passe du domaine de l'idéal dans celui de la réalité par la reconnaissance effective du droit sacré pour les peuples de disposer d'eux- même, le peuple de l'ancien Empire Annam, aujourd'hui Indo-Chine Francaise, présente aux Nobles Gouvernements de l'Entente en général et à l'honorable Gouvernement Francais en particulier les humbles revendications suivantes:

1- Amnistie Générale en faveur de tous les condamnés politiques indigènes
2- Réforme de la justice indochinoise par l'octroi aux Indigènes des mêmes garanties judiciaires qu'aux Européens, et la suppression complète et définitive des Tribunaux d'exception qui sont des instruments de terrorisation et d'oppression contre la partie la plus honnête du peuple Annamite.
3- Liberté de presse et d'opinion.
4- Liberté d'associationet de Réunion
5- Liberté d'émigration et de voyage à l'étranger,
6- Liberté d'enseignement et création dans toutes les provinces des écoles d'enseignements techniques et professionnels à l'usage des indigènes.
7- Remplacement du  Régime des lois
8- Délégation permanente d'indigènes élus auprès du Parlement Francais pour le tenir au courant des désidérata indigènes.

Le peuple Annamite, en présentant des revendications ci-dessus formulées, compte sur la justice mondiale des toutes les Puissances et se recommande en particulier à la bienveillance du Noble Peuple Francais qui tient son sort entre ses mains et qui, La France étant une République, est censée d'avoir pris sous sa protection. En se réclament de la protection du Peuple Francais, Le Peuple Annamite, bien loin de s'humilier, s'honore au contraire; car il sait que le Peuple Francais représente la liberté et la justice, et ne renoncera jamais à son sublime idéal de Fraternité universelle. En conséquence, en écoutant la voix des opprimés, le Peuple Francais fera son devoir envers la France et envers l'Humanité.
Pour le Groupe des Patriotes Annamites: Nguyễn Ái Quấc
 
Thỉnh nguyện của dân tộc Annam
 
Từ khi Đồng Minh thắng trận và các cường quốc long trọng cam kết minh bạch trước thế giới quyết tâm tranh đấu lấy Văn Minh chống lại Hung Tàn, tất cả những dân tộc bị áp bức đều nôn nao hy vọng trước viễn ảnh sẽ được sống trong công bằng và luật pháp.
Trong khi chờ đợi nguyên tắc dân tộc tự quyết từ lý tưởng sang thực tế, bằng sự nhìn nhận thực sự quyền thiêng của mỗi dân tộc tự định đoạt lấy số phận mình; Chúng tôi, Thần dân của Đế quốc An Nam ngày trước, nay là Đông Dương Pháp, trình bày với Cao Quyền Đồng Minh nói chung và Kính Quyền Pháp nói riêng, những thỉnh nguyện khiêm tốn sau đây:

1- Ân xá tất cả tù binh chính trị bản xứ.
2- Cải tổ luật pháp Đông dương, bằng cách bảo đảm cho người bản xứ những điều kiện về luật pháp như người Âu châu. Bỏ hẳn các toà án đặc biệt là những công cụ khủng bố và đàn áp thành phần lương thiện nhất của dân tộc An Nam.
3- Tự do báo chí và tư tưởng.
4- Tự do lập hội và hội họp.
5-Tự do di dân và du lịch ra nước ngoài.
6-Tự do giáo dục và xây dựng những trường kỹ thuật và thực nghiệp tại các tỉnh cho người bản xứ.
7- Thay thế Chế độ pháp lý.
8- Có phái đoàn đại diện thường trực dân biểu bản xứ tại Nghị viện Pháp để thông báo những nguyện vọng của người dân bản xứ.

Dân tộc An Nam, qua những thỉnh nguyện trên đây, tin tưởng ở công pháp quốc tế của các cường quốc và đặc biệt trông cậy vào lòng thành của dân tộc Pháp cao quý, đang cầm vận mệnh của chúng tôi trong tay, nước Pháp là một nước Cộng hoà, cầm bằng như đã bảo hộ chúng tôi. Khi thỉnh cầu sự bảo trợ của Dân tộc Pháp, Dân tộc An Nam, không hề tự hạ mình, mà ngược lại còn lấy làm vinh hạnh, vì họ biết Dân tộc Pháp biểu hiện tự do và công bằng, không bao giờ từ khước lý tưởng cao cả: Tứ hải giai huynh đệ. Vì vậy, khi đáp ứng tiếng kêu của người bị áp bức, Dân tộc Pháp không những làm tròn bổn phận đối với nước Pháp mà còn đối với cả Nhân loại.
Thay mặt nhóm An Nam Yêu Nước - Nguyễn Ái Quấc.
(Thụy Khuê dịch)
 

Việt-Nam yêu cầu ca
Bằng nay gặp hội Giao hoà.
Muôn giân hèn yếu gần xa vui tình.
Cầy rằng các nước Đồng minh
Đem gươm công lí giứt hình giã man
Mấy phen công bố rõ ràng.
Dân nào rồi cũng được trang bình quyền
Việt Nam xưa cũng oai thiêng
Mà nay đứng giới thuộc quyền Lang-sa.
Lòng thành tỏ nỗi sút sa.
Giám xin đại quấc soi qua chút nào.
1 xin tha kẻ đồng-bào.
Vì chưng chính trị mắc vào tù giam.
2 xin phép luột sửa sang
Người Tây người Việt hai phương cùng đồng.
Những toà đặc-biệt bất công
Giám xin bỏ giứt rộng giung dân lành
3 xin rộng phép học hành
Mở mang kỵ nghệ, tập tành công thương
4 xin được phép hội hàng
5 xin nghị ngượi nói bàn tự gio
6 xin được phép lịch giu
Bốn phương mặc sức, năm châu mặc tình.
7 xin hiến-pháp ban hành
Trăm đều phải có thần-linh pháp quyền.
8 xin được cử nghị-viên.
Qua Tây thay mặt giữ quyền thổ giân.
Tám đều cặn tỏ xa gần.
Chưng nhờ vạn quốc công giân xét tình
Riêng nhờ giân Pháp công bình
Đem lòng đoái lại của mình trong tay.
Pháp giân nức tiếng xưa nay.
Đồng-bào, bác ái sánh tày không ai.
Nỡ nào ngảnh mặt ngơ tai.
Để cho mấy ức triệu người bơ vơ.
Giân Nam một giạ ước mơ
Lâu nay tiếng núp bóng cờ tự-gio.
Rộng xin giân Pháp xét cho
Trước phò tiếng nước, sau phò lẽ công.
Gịch mấy chữ quấc âm bày tỏ
Để đồng-bào lớn nhỏ được hay.
Hoà bình may gặp hồi nầy
Tôn sùng công lí, đoạ đày gia-man
Nay gặp hội khải hoàn hĩ hạ
Tiếng vui mừng khắp cả đồng-giân
Tây vui chắc đã mười phần
Lẽ nào Nam lại chịu thân tôi đòi
                  *******
Hẵng mở mắt mà soi cho rõ
Nào Ai-lan, Ấn-độ, Cao-ly.
Xưa, hèn phải bước suy vi
Nay, gần độc lập cũng vì giân khôn
Hai mươi triệu quấc hồn Nam Việt
Thế cuộc nầy phải biết mà lo
Đồng bào, bình đẳng tự gio
Xét mình rồi lại đem so mấy người
Ngổn ngang lời vắn ý giài
Anh em đã thấu lòng nầy cho chưa

Nguyễn Ái Quấc

No comments:

Post a Comment