Tiến
tới đại hội Đảng lần thứ 12, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương
Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Tô Huy Rứa có bài viết đánh giá
những kết quả đã làm được, chỉ rõ nguyên nhân thành công của nhiệm kỳ
2011-2016. VnExpress xin đăng toàn văn bài viết.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng sắp diễn ra có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong đời sống chính trị xã hội nước ta. Để chuẩn bị
cho sự kiện trọng đại này, Đảng đã tập trung chỉ đạo, chuẩn bị từ rất
sớm về mọi mặt và đến thời điểm này, đại hội cấp cơ sở, cấp trên trực
tiếp cơ sở, cấp trực thuộc Trung ương đã thành công tốt đẹp. Kết quả
thành công của tất cả 67 đại hội đảng bộ trực thuộc Trung ương, mở đầu
là Đại hội Đảng bộ tỉnh Hòa Bình khai mạc ngày 15/9/2015 và kết thúc là
Đại hội Đảng bộ TP Hà Nội bế mạc ngày 3/11/2015, hoàn thành sớm hơn gần
hai tháng so với nhiệm kỳ trước, là tiền đề quan trọng để tổ chức thành
công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng.
Chúng ta cảm nhận được bầu không khí phấn khởi thật sự của các địa
phương, cơ quan sau khi đại hội đảng bộ các cấp kết thúc. Các đảng bộ
trực thuộc Trung ương đều đã bầu thành công ban chấp hành khóa mới, cơ
bản đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, đúng về tỷ lệ độ tuổi quy định và
đặc biệt, chất lượng của cấp ủy viên, nhất là các đồng chí lãnh đạo chủ
chốt, được nâng lên cả về phẩm chất, đạo đức, học vấn, trình độ lý luận,
năng lực công tác và kinh nghiệm thực tiễn.
Các đại hội đều thể hiện tinh thần đoàn kết, dân chủ, kỷ cương và đổi
mới. Có thể khẳng định, thành công của đại hội đảng bộ các cấp tiến tới
Đại hội 12 của Đảng không hề là kết quả ngẫu nhiên, mà là kết quả tất
yếu thể hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo chủ động, thống nhất và có hiệu quả
của Đảng ta về đổi mới công tác xây dựng Đảng trong suốt nhiệm kỳ đại
hội, được bắt nguồn từ Nghị quyết hội nghị Trung ương 4 khóa 11.
1- Nghị quyết hội nghị Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” - bước đột phá về công tác xây dựng Đảng
Như chúng ta đều biết, mọi chế độ xã hội cũng như các giai cấp, đảng
phái cầm quyền, vì lợi ích của mình, đều phải ra sức chăm lo xây dựng
đội ngũ lãnh đạo. Trên thế giới, nhiều nhà tư tưởng, triết gia đã có tầm
nhìn và nhận thức đúng đắn về xây dựng đội ngũ tinh hoa. Tagor, một nhà
thơ, một triết gia Bà La Môn nổi tiếng của Ấn Độ đã nói: Đào luyện một
người đàn ông, chúng ta được một người đàn ông. Đào luyện một phụ nữ,
chúng ta được một gia đình. Đào luyện một thầy giáo, chúng ta được một
thế hệ. Còn đào luyện một lãnh tụ, chúng ta được một quốc gia phát
triển.
Khi giai cấp vô sản bước lên vũ đài chính trị, V.I.Lê-nin từng khẳng
định: Trong lịch sử, chưa hề có giai cấp nào giành được quyền thống trị,
nếu nó không đào tạo được ra trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ
chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo
phong trào. Thực tiễn của cách mạng thế giới trong mấy thập niên qua
cũng đã chỉ ra rằng: Đảng cầm quyền nếu không thường xuyên đổi mới,
không thường xuyên chỉnh đốn để xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh,
không thường xuyên phát triển đội ngũ những đại biểu tiền phong của mình
thì vai trò cầm quyền của đảng rốt cuộc cũng sẽ bị lu mờ và tự đánh mất
vai trò lãnh đạo.
Trong lịch sử văn hiến hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, cha ông
chúng ta đã sớm sáng lập Quốc Tử Giám, một trung tâm đào tạo những người
hiền tài - được coi là "nguyên khí quốc gia", để gánh vác đại sự đất
nước. Kế thừa tri thức nhân loại và tinh hoa văn hóa dân tộc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động của mình đã luôn chú trọng đến
công tác cán bộ, từ đánh giá, lựa chọn, đào tạo, thử thách, rèn luyện
đến sử dụng và đãi ngộ. Người cho rằng "cán bộ là cái dây chuyền của bộ
máy" Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân; "cán bộ là cái gốc của mọi công
việc", "công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém".
Quán triệt sâu sắc lời di huấn của Bác và trên cơ sở đúc kết các bài
học kinh nghiệm quốc tế, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng và xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Trong thời kỳ đổi
mới, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt và Đảng phải thực sự
trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, phương
thức lãnh đạo.
Từ Đại hội VI của Đảng đến nay, không có nhiệm kỳ nào Trung ương Đảng
không có nghị quyết về xây dựng Đảng, về đổi mới chỉnh đốn Đảng, về công
tác cán bộ. Nhưng có một điều hết sức quan ngại là chúng ta đã tiến
hành thường xuyên, liên tục trong nhiều nhiệm kỳ, với nhiều biện pháp,
nhiều cuộc vận động nhưng kết quả vẫn còn khá khiêm tốn. Tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng, lãng phí,
hư hỏng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa được đẩy lùi
mà thậm chí có chiều hướng nghiêm trọng hơn, làm xói mòn lòng tin đối
với Đảng.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương bốn khóa XI ban hành đúng lúc, kịp thời,
thể hiện quyết tâm chính trị và là giải pháp cấp bách, cần làm ngay để
khắc phục tình hình, mong muốn tạo ra được các kết quả cụ thể, rõ rệt để
củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nghị quyết Trung
ương 4, tập trung vào ba vấn đề cấp bách nhất. Một là đấu tranh ngăn
chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức lối
sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Hai là xây dựng đội ngũ lãnh đạo
cán bộ quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Ba là xác
định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền
trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị
và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Về thực chất, Nghị quyết Trung ương 4 tập trung trước hết nhằm khắc
phục một vấn đề vô cùng khó khăn lâu nay là công tác đánh giá cán bộ.
Bằng việc triển khai ba nhiệm vụ cấp bách và bốn nhóm giải pháp, việc
đánh giá cán bộ theo Nghị quyết Trung ương 4 được yêu cầu nhấn mạnh hơn,
quyết liệt hơn các tiêu chuẩn: lập trường tư tưởng chính trị, năng lực
thực tiễn thể hiện bằng hiệu quả công việc; uy tín trong đảng và trong
nhân dân; tư duy đổi mới và sáng tạo; có khả năng nắm bắt, xử lý có hiệu
quả các vấn đề mới phát sinh; đoàn kết, quy tụ đội ngũ cán bộ; phong
cách làm việc khoa học, dân chủ, sâu sát, dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm; minh bạch, công tâm, khách quan trong công tác cán bộ; khả
năng phát hiện và sử dụng người có đức, có tài; không tham ô, tham
nhũng; có thái độ kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tham ô, tham
nhũng, tiêu cực và phản bác các luận điệu xuyên tạc, phản động, trái với
Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
Những tiêu chuẩn này là cụ thể, rõ ràng và mang tính định lượng hơn, là
tấm gương soi cho cán bộ, đảng viên tự sửa mình trong công việc. Đây là
cơ sở quan trọng và là điều kiện tiên quyết để đánh giá, lựa chọn, quy
hoạch, đào tạo, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ cũng như cho việc chuẩn bị
nhân sự của đại hội đảng bộ các cấp sau này. Bởi vậy, trong Chỉ thị 36
ngày 30/5/2014 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng, các tiêu chuẩn này đã được
lưu ý rất rõ ràng trong hướng dẫn công tác nhân sự cho đại hội đảng bộ
các cấp.
Đồng thời, để tạo sự khách quan trong đánh giá, lựa chọn cán bộ, lần
đầu tiên, Đảng ta quy định việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức
danh lãnh đạo trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể và theo đó
những người hai năm liền tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ sẽ
được xem xét, cho thôi giữ chức vụ, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi
công tác. Rõ ràng, Đảng bắt mạch đúng bản chất của vấn đề, xác định điểm
nghẽn sâu xa của mọi sự trì trệ, yếu kém trong Đảng hiện nay nằm ở công
tác cán bộ, nhất là công tác đánh giá cán bộ. Chỉnh đốn Đảng bắt đầu từ
công tác cán bộ là sự lựa chọn đột phá đúng và trúng của Đảng ta ở
nhiệm kỳ Đại hội 11.
Ngay sau khi ban hành, Nghị quyết Trung ương 4 đã được tuyệt đại đa số
cán bộ đảng viên và nhân dân đón nhận với tình cảm hồ hởi, vui mừng,
đồng tình, nhất trí cao, coi đây là “cẩm nang” để xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, là cơ sở để lập kế hoạch kiểm điểm và tổ chức thực hiện kiểm điểm.
Các tổ chức cơ sở Đảng, từ Trung ương đến địa phương, đã tiến hành kiểm
điểm nghiêm túc, khẳng định đây là công việc thường xuyên, vừa làm, vừa
rút kinh nghiệm; xác định kiểm điểm không phải là đi tìm đối tượng để
xử lý kỷ luật, là bới lông tìm vết, mà để răn đe phòng ngừa, ngăn chặn,
để cán bộ tự giác tu dưỡng, tự điều chỉnh hành vi của mình, gột rửa cái
xấu, cảnh giác trước mọi cám dỗ về danh lợi, vật chất, tiền tài, tránh
rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, tệ hại.
Nghị quyết đã thể hiện sự trung thực chính trị đáng trân trọng của Đảng
ta, thể hiện tinh thần “tự chỉ trích” để hoàn thiện và phát triển; dũng
cảm, thẳng thắn tiến hành tự kiểm điểm phê bình từ trên xuống, mạnh dạn
chỉ ra những yếu kém, hạn chế trong nội bộ Đảng đồng thời đưa ra giải
pháp khắc phục mà không e ngại đến vai trò cầm quyền của Đảng. Chính
việc chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm là cách thức để Đảng vượt lên,
nâng cao vai trò cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng.
Đảng cần nhất lúc này là niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Lòng tin
của nhân dân vào Đảng thường được đặt vào những công việc rất cụ thể, ở
chính hình ảnh của các cán bộ, đảng viên; ở phẩm chất đạo đức, tác
phong, năng lực và hiệu quả công tác của họ. Do vậy, để dân tin Đảng,
Đảng phải thẳng thắn nhận trách nhiệm trước nhân dân về sự suy thoái tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ chủ chốt. Điều đó cũng có nghĩa là Nghị quyết Trung ương 4
là dấu mốc về cách làm mới, chuyển biến mới trong công tác xây dựng
Đảng.
Trên thực tế, nhiều công việc đã được Đảng triển khai một cách đồng bộ
để đưa Nghị quyết Trung ương 4 đi vào cuộc sống. Đó là công tác quy
hoạch cán bộ cấp chiến lược; công tác đào tạo dự nguồn cao cấp và cán bộ
chủ chốt ở các cơ quan trung ương và địa phương; công tác luân chuyển
cán bộ được tiến hành đồng bộ ở cả hai chiều; công tác nhân sự và việc
sửa đổi quy chế bầu cử trong Đảng cho phù hợp với tình hình…
Dường như các cơ sở Đảng đã không còn bị động trong công tác kiểm điểm,
đánh giá giữa kỳ và cuối nhiệm kỳ; không khí nặng nề, khép kín, cục bộ,
thiếu tin tưởng trong sinh hoạt đảng các cấp ở nhiều nơi từng bước được
thay thế bằng không khí công khai, dân chủ, cởi mở, tin tưởng và đầy
tinh thần xây dựng. Không khí ấy được thể hiện bằng các hành động cụ
thể, đầy trách nhiệm trong công việc chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ
các cấp. Đại hội đảng các cấp thành công, rõ ràng, được bắt nguồn sâu
xa từ các kết quả thực hiện đổi mới công tác xây dựng Đảng mà trước hết
là thực hiện ba vấn đề cấp bách và bốn giải pháp được nêu trong Nghị
quyết Trung ương 4.
2- Quy hoạch cán bộ các cấp và quy hoạch cán bộ cấp chiến lược - tầm nhìn và chất lượng mới trong công tác cán bộ
Xuất phát từ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ cấp bách thứ hai trong Nghị
quyết Trung ương 4 về xây dựng đội ngũ lãnh đạo, quản lý, nhất là ở cấp
Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận 24 ngày 5/6/2012
về đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý
đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
Công tác quy hoạch cán bộ ở nhiệm kỳ Đại hội 11, về thực chất, là sự
tiếp tục của Nghị quyết 42 ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị khóa 9 nhằm
khắc phục các hạn chế, yếu kém của công tác quy hoạch trong các nhiệm kỳ
trước. Thứ nhất, quy hoạch là để tạo nguồn bồi dưỡng, đào tạo, luân
chuyển, bố trí, sử dụng, nhưng trên thực tế có nơi, có lúc chưa thực
hiện theo quy hoạch; quy hoạch chưa thường xuyên liên tục, chưa xuất
phát từ đánh giá đúng cán bộ; còn mang tính hình thức, chắp vá, không
đồng bộ, thiếu chủ động trong bố trí cán bộ và thiếu tính khả thi.
Thứ hai, chất lượng quy hoạch cán bộ chưa cao, không đồng đều, thiếu
tầm nhìn xa, chưa bảo đảm cơ cấu ba độ tuổi, không bảo đảm tỷ lệ cán bộ
nữ, tỷ lệ cán bộ trẻ, tỷ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số. Và thứ ba,
quy hoạch cán bộ thời gian qua chưa có tính tổng thể và sự liên thông
giữa cấp dưới với cấp trên, giữa địa phương với Trung ương, giữa các
ngành, các lĩnh vực công tác, đặc biệt là chưa hề có quy hoạch Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ
chốt của Đảng và Nhà nước.
Ở nước ta, nói đến chủ trương quy hoạch cán bộ thì hầu như ít người
phản đối nhưng lại luôn coi đây là việc khó. Nhiều ý kiến cho rằng thực
hiện quy hoạch, công khai danh tính cán bộ dự nguồn phát triển là một
vấn đề nhạy cảm vì đưa cán bộ vào diện quy hoạch rất có thể sẽ trở thành
đối tượng bị soi mói, công kích, bị gièm pha và có thể gây mất đoàn kết
nội bộ và mất cán bộ. Tuy nhiên, thực tế triển khai ở các địa phương
thời gian qua cho thấy, ở đâu quy hoạch đúng người, bố trí công việc hợp
lý, cán bộ được quan tâm, tạo điều kiện phát triển thì đều thành công.
Các trường hợp thất bại không nằm ở bản thân chủ trương quy hoạch mà là
nằm ở cách làm quy hoạch và sự thiếu trách nhiệm của những người đứng
đầu các cơ quan, đơn vị.
Hơn nữa, để lựa chọn được đúng người và bảo vệ được quy hoạch, cần bảo
đảm tính minh bạch, dân chủ, công khai, khoa học trong đánh giá cán bộ,
lấy quy hoạch lãnh đạo chủ chốt ở cấp dưới làm cơ sở cho quy hoạch cán
bộ cấp trên, có cơ chế và điều kiện tốt, thật sự công bằng để cán bộ quy
hoạch được thể hiện tài năng, phấn đấu, cống hiến và trưởng thành. Bởi
vậy, ngay sau khi có Nghị quyết Trung ương 4, công tác kiểm điểm và đánh
giá cán bộ là khâu quan trọng được xác định trong lựa chọn nhân sự quy
hoạch. Công tác quy hoạch và công tác nhân sự thống nhất nhưng không
đồng nhất. Khi xem xét một nhân sự cụ thể nào đó còn phải cân nhắc, tính
toán nhiều yếu tố khác. Nhưng phương án nhân sự dứt khoát phải được xây
dựng dựa trên quy hoạch.
Mặt khác, rút kinh nghiệm trong thực tế, chúng ta đã thực hiện quy
hoạch theo chức danh cụ thể. Một chức danh lãnh đạo chủ chốt ở các cấp,
các ngành, các địa phương có thể quy hoạch từ một đến ba người và một
người có thể quy hoạch nhiều chức danh. Cơ hội rộng mở cho mọi người và
dư địa cho sự lựa chọn, đào tạo và bồi dưỡng cũng rất rộng. Nhờ có sự rõ
ràng về quan điểm chỉ đạo, chặt chẽ về nguyên tắc, “động” và “mở” về
phương châm, công tác quy hoạch lần này đã rất chú trọng đến nhiệm vụ rà
soát, bổ sung quy hoạch, đưa ra khỏi quy hoạch những người không còn đủ
tiêu chuẩn, bổ sung vào quy hoạch các nhân tố mới.
Một điểm mới mà thực chất là nhiệm vụ cũ của nhiệm kỳ trước nêu ra
nhưng chưa làm, đó là quy hoạch cán bộ cấp chiến lược ở Trung ương. Đây
là một nhiệm vụ rất quan trọng nhằm khắc phục nguy cơ hẫng hụt cán bộ
cấp chiến lược và đồng thời đáp ứng yêu cầu bảo đảm tính nhất quán, liên
thông và đồng bộ về công tác cán bộ nói chung, công tác quy hoạch nói
riêng trong toàn bộ hệ thống chính trị. Việc quy hoạch cán bộ cấp chiến
lược đã được Đảng triển khai một cách đồng bộ, thực chất, dân chủ, công
khai, minh bạch: lấy thực tế kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 làm
cơ sở để hoàn chỉnh tiêu chuẩn về đánh giá và lựa chọn cán bộ đưa vào
quy hoạch; lấy quy hoạch cán bộ cấp chiến lược làm cơ sở cho công tác
đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách; đồng thời, lấy quy hoạch cấp
chiến lược để thúc đẩy quy hoạch cán bộ chủ chốt ở cấp dưới.
Đặc biệt, quy hoạch cán bộ cấp chiến lược phải đặt dưới sự lãnh đạo tập
trung thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
và là cơ sở cho việc chuẩn bị công tác nhân sự diện Bộ Chính trị, Ban
Bí thư quản lý cũng như công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương tại
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 12 và các nhiệm kỳ tiếp theo. Đây là việc
chưa từng làm, nhiều thách thức và không ít khó khăn nhưng lại là việc
rất cần thiết lẽ ra phải được triển khai từ lâu. Nói cách khác, đây sẽ
là công việc thường xuyên trong công tác cán bộ của Đảng.
Sau ba năm triển khai thực hiện, điều hết sức rõ ràng là công tác quy
hoạch cán bộ nói chung, quy hoạch cán bộ cấp chiến lược nói riêng đã đi
vào đời sống của Đảng như một lẽ tự nhiên. Cán bộ được quy hoạch phấn
khởi, luôn nỗ lực trau dồi, rèn luyện cho xứng đáng với vị trí được quy
hoạch. Cán bộ chưa được quy hoạch lấy các tiêu chuẩn cán bộ diện quy
hoạch để hoàn thiện bản thân mình. Hiện tượng so kè, đố kỵ, níu kéo,
thiếu tinh thần xây dựng trong công tác quy hoạch đã không còn phổ biến.
Công tác quy hoạch trở thành nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị.
Công tác bổ nhiệm tuân thủ nghiêm túc theo quy hoạch, hạn chế được tình
trạng tuỳ tiện, vị thân, không đúng người, vì người bổ nhiệm chứ chưa vì
công việc để chọn người phù hợp.
Tại đại hội đảng bộ các cấp, việc giới thiệu nhân sự cấp ủy hầu như đều
từ nguồn quy hoạch đã phê duyệt và điều rất đáng phấn khởi là các đồng
chí trúng cử về cơ bản đều là các đồng chí trong diện quy hoạch của cấp
uỷ các cấp. Trừ các đồng chí tái cử còn trong tiêu chuẩn quy định, tuyệt
đại đa số các đồng chí được bầu vào ban chấp hành đảng bộ tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương đều là các đồng chí trong diện quy hoạch cán
bộ chủ chốt. Nhiều tài năng trẻ đã được phát hiện, bồi dưỡng và trưởng
thành nhanh chóng, giữ các cương vị quan trọng trong lãnh đạo chủ chốt
của các địa phương. Hầu hết các đồng chí Bí thư tỉnh ủy khoá mới đều là
các đồng chí đã được quy hoạch vào Ban Chấp hành Trung ương khóa XII. Rõ
ràng, sự đổi mới công tác quy hoạch cán bộ và cán bộ cấp chiến lược của
nhiệm kỳ Đại hội XI là bước chuẩn bị quan trọng, là một bảo đảm cho sự
thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
3- Mở lớp dự nguồn cao cấp và luân chuyển cán bộ - định hướng đào tạo thực chất, đồng bộ và hiệu quả
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lúc sinh thời, luôn nhấn mạnh đến vai trò con
người và luôn yêu cầu công tác cán bộ, đào tạo cán bộ phải đi trước một
bước. Người nói “ cán bộ là cái gốc của mọi công việc… và huấn luyện cán
bộ là công việc gốc của Đảng”. Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng ta đã
luôn quan tâm và chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Để là cái
gốc của mọi công việc, người cán bộ phải có tư duy biện chứng, tư duy hệ
thống, có tầm nhìn xa, chiến lược, tinh thần thượng tôn pháp luật, năng
lực quy tụ và tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị được
giao.
Điều này là hoàn toàn đúng và càng quan trọng hơn khi Đảng ta đang đứng
trước nhiệm vụ trọng đại: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế trong bối cảnh mới; khi trong thời đại ngày
nay, khoa học công nghệ đã thật sự trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, kinh tế tri thức ngày càng chiếm ưu thế trong phát triển kinh tế -
xã hội của mọi quốc gia; khi lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế đã chủ yếu dựa trên công nghệ, tri thức, đổi
mới và sáng tạo.
Nhận thức rõ tầm quan trọng và yêu cầu mới đối với công tác đào tạo cán
bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược; và cùng với việc triển khai công tác
quy hoạch, Đảng ta đã rất chú trọng mở các lớp dự nguồn cao cấp, cả cán
bộ quy hoạch cấp chiến lược ở Trung ương và cán bộ chủ chốt ở địa
phương. Tương tự như công tác quy hoạch, các lớp dự nguồn cao cấp cũng
được tổ chức đào tạo theo chức danh cho các đồng chí thuộc diện quy
hoạch cấp chiến lược.
Đối tượng tham dự các lớp này là các đồng chí ủy viên dự khuyết Ban
Chấp hành Trung ương, các đồng chí quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương
khóa XII, các đồng chí quy hoạch lãnh đạo chủ chốt của các cơ quan trung
ương và địa phương. Chương trình và nội dung đào tạo, do vậy, có điểm
khác với các chương trình lý luận cao cấp hiện nay là, không chỉ làm sâu
sắc hơn các vấn đề lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trong điều kiện mới mà còn cập nhật có hệ thống, làm rõ các vấn đề
lớn, mới trong quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng; nhấn mạnh việc
đánh giá, tổng kết thực tiễn đất nước ta sau 30 năm đổi mới; định rõ thế
và lực mới, cách tiếp cận phát triển mới của Việt Nam trong bối cảnh
thế giới, khu vực đang thay đổi nhanh, mạnh với nhiều cơ hội và thách
thức mới; đưa vào chương trình nhiều kiến thức về thế giới đương đại
thuộc lĩnh vực tư duy chiến lược như: xây dựng tầm nhìn quốc tế và khu
vực, cục diện thế giới hiện nay, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, bàn
cờ chính trị thế giới…
Để đáp ứng yêu cầu này, giảng viên được lựa chọn là các đồng chí lãnh
đạo cấp cao, các nhà quản lý, hoạch định chính sách có kinh nghiệm,
không chỉ hiểu sâu về lý luận mà còn có nhiều kinh nghiệm trong hoạt
động và chỉ đạo thực tiễn; là các chuyên gia giỏi có tư duy đổi mới, có
năng lực cập nhật tri thức tổ chức và quản trị hiện đại, có các phương
pháp tiếp cận công tác tiên tiến. Đặc biệt, lần đầu tiên, chúng ta mời
các chuyên gia quốc tế, các đại sứ, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp có uy
tín cùng tham gia thuyết trình chuyên đề và thảo luận, nhất là việc
nghiên cứu, phân tích và xử lý tình huống về thành công và thất bại của
các mô hình phát triển, ở cả cấp vĩ mô và vi mô.
Bởi vậy, tri thức được chuyển tải ở các lớp dự nguồn cao cấp là phong
phú, sâu sắc, cập nhật, liên thông giữa lý luận và thực tiễn, khắc phục
được lối mòn, tính giáo điều và sự kinh viện. Cũng lần đầu tiên, trong
khoảng thời gian bốn tháng, các học viên dự nguồn cao cấp còn được đi
thực tế địa phương, thực hiện “ba cùng” với các địa phương để nâng cao
kỹ năng nắm bắt, hiểu biết và xử lý các vấn đề thực tiễn cụ thể. Phương
châm “học đi đôi với hành”, “lý luận gắn với thực tiễn” đã rất được chú
trọng. Không chỉ đi thực tế trong nước, các học viên còn được tạo điều
kiện đi khảo sát hai tuần ở nước ngoài, được tiếp cận mô hình đào tạo
hiện đại ở các quốc gia phát triển, như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…
Đây là cách bổ sung kiến thức hai chiều khá hiệu quả: người cần bổ sung
hiểu biết thực tiễn thì được nâng cao qua đi thực tế và ngược lại,
người cần bổ sung kiến thức lý luận thì được làm giàu thêm qua cập nhật
tri thức. Học viên các lớp dự nguồn cao cấp cũng không làm luận văn,
luận án tốt nghiệp như các lớp cao học và nghiên cứu sinh, nặng khía
cạnh học thuật mà được yêu cầu làm đề án tốt nghiệp mang tính triển
khai, xử lý thực tiễn về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
xây dựng Đảng... tùy theo lĩnh vực chức trách nhiệm vụ học viên đang
đảm nhiệm. Nghĩa là đề án tốt nghiệp phải trở thành phương án lãnh đạo,
chỉ đạo của học viên tại cơ quan, đơn vị, địa phương mình trên tư cách
là người lãnh đạo chủ chốt.
Tính đảng của lớp học cũng rất được đề cao: tổ chức học tập và sinh
hoạt nội trú; tăng cường tự học, tự nghiên cứu; nghiêm về kỷ cương, kỷ
luật; nêu cao vai trò và trách nhiệm cá nhân... Đây là những phẩm chất
cần có, cần được chuẩn bị cho hoạt động thực tiễn sau này. Các địa
phương, tùy theo điều kiện của mình, cũng đã chủ động tổ chức các lớp dự
nguồn cấp chủ chốt địa phương.
Trong khóa 11, chúng ta đã tổ chức được 6 lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ
cao cấp với 511 học viên, trong đó 231 đồng chí là cán bộ cấp tỉnh, 280
đồng chí là cán bộ khối ban, bộ, ngành Trung ương. Kết quả của các lớp
học là khả quan. Cán bộ phấn khởi, tin tưởng và học tập nghiêm túc.
Nhiều học viên đạt kết quả xuất sắc, được quy hoạch và bổ nhiệm ở các vị
trí công tác cao hơn. Đặc biệt, không ngoài dự đoán, 100% số học viên
các lớp dự nguồn cao cấp công tác tại các địa phương được bầu vào Ban
Thường vụ, Phó Bí Thư tỉnh ủy và 45 trong tổng số 61 đồng chí đắc cử bí
thư tỉnh ủy, thành ủy lần này đều là học viên của các khóa dự nguồn cao
cấp nhiệm kỳ Đại hội XI. Điều đó cũng có nghĩa là Đảng ta đã chủ động
hơn về công tác nhân sự, nguy cơ hẫng hụt về cán bộ cấp chiến lược đã
được khắc phục đáng kể.
Luân chuyển cán bộ, xét về bản chất, cũng là công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, bố trí và sắp xếp cán bộ có khoảng thời gian đủ dài để cọ
xát thực tiễn, nhất là đối với các đồng chí quy hoạch cán bộ cấp chiến
lược từ các cơ quan trung ương. Cần phải thấy rằng, công tác luân chuyển
hiện nay đang làm không phải là vấn đề mới. Hơn 10 năm qua, các cấp ủy,
tổ chức Đảng đã tích cực triển khai công tác luân chuyển, góp phần đào
tạo, thử thách cán bộ qua thực tiễn và tăng cường cán bộ cho những nơi
khó khăn. Hầu hết cán bộ qua luân chuyển đều có bước trưởng thành, tích
lũy được nhiều kinh nghiệm thực tiễn, có quan điểm nhìn nhận và phương
pháp lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, sâu sát hơn.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều trường hợp luân chuyển đào tạo cán bộ
chưa hoàn toàn dựa trên cơ sở đánh giá cán bộ và quy hoạch cán bộ; tình
trạng khép kín, cục bộ còn nặng nề; hiện tượng nơi thừa, nơi thiếu còn
khá phổ biến. Rút kinh nghiệm các khóa trước, công tác luân chuyển nhiệm
kỳ này được chuẩn bị khá sớm cùng với công tác quy hoạch, được xây dựng
và lập kế hoạch cụ thể trên cơ sở đánh giá cán bộ theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 4; xác định nhu cầu đào tạo cán bộ ở cả nơi đến và nơi
đi; làm rõ mục đích luân chuyển và chức danh cần luân chuyển, không nhất
thiết phải luân chuyển đến những nơi mà địa phương có nguồn cán bộ phù
hợp và cũng tương tự như vậy, không khiên cưỡng đưa đi luân chuyển những
trường hợp cán bộ mà các cơ quan hữu quan còn có ý kiến khác nhau.
Quy trình luân chuyển được tổ chức hết sức chặt chẽ bắt đầu từ xin chủ
trương của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về tiếp tục luân chuyển sau khi tổng
kết kinh nghiệm luân chuyển của các khóa trước; xây dựng tiêu chí để
xác định địa bàn, chức danh cán bộ (phó bí thư, phó chủ tịch hay đồng
thời cả phó bí thư và phó chủ tịch), nguồn cán bộ và thời gian luân
chuyển; sau khi được Bộ Chính trị, Ban Bí thư đồng ý mới thông báo để
các ban, bộ, ngành có nhu cầu luân chuyển lựa chọn các đồng chí vụ
trưởng và tương đương, trong quy hoạch chức danh chủ chốt để báo cáo
Trung ương.
Những cán bộ này được gửi xin ý kiến thẩm định của Ban cán sự Đảng
chính phủ, Ủy ban kiểm tra Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Nội
chính Trung ương, Đảng ủy khối và địa phương sẽ luân chuyển cán bộ tới
tùy theo mỗi chức danh. Ban Bí thư sẽ chỉ phê duyệt khi có sự đồng thuận
cao của các cơ quan và địa phương được tham khảo ý kiến. Điều đó cũng
khẳng định rằng, công tác luân chuyển cán bộ đã được tiến hành một cách
bài bản, đồng bộ, và có phần chủ động hơn, nhất là về luân chuyển cán bộ
cấp chiến lược.
Điểm khác biệt đáng lưu ý trong công tác luân chuyển cán bộ nhiệm kỳ
này là luân chuyển bắt buộc phải dựa trên quy hoạch và luân chuyển gắn
chặt chẽ với đào tạo dự nguồn, nhất là đối với các đồng chí quy hoạch
cấp chiến lược. Trên thực tế, chúng ta đã thực hiện được một đợt luân
chuyển 54 đồng chí quy hoạch cấp chiến lược từ các cơ quan trung ương về
địa phương. Hầu hết các đồng chí này đã phát huy được năng lực, sở
trường công tác, đa số trúng cử cấp ủy, tham gia ban thường vụ và lãnh
đạo chủ chốt của các địa phương.
Đặc biệt, có sáu đồng chí luân chuyển thuộc diện Trung ương quản lý đắc
cử Bí thư tỉnh ủy, chức danh cao hơn chức danh trước khi luân chuyển.
Nhiều đồng chí đã được địa phương giới thiệu tham gia ứng cử Ban Chấp
hành Trung ương khóa XII với số phiếu khá cao. Đây cũng là một kết quả
rất đáng ghi nhận, thể hiện tính thực chất và có hiệu quả của công tác
luân chuyển cán bộ trong điều kiện mới.
4- Chỉ thị 36 và Quy chế bầu cử trong Đảng - nhân tố trực tiếp góp phần quyết định sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp
Để chuẩn bị cho đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ 12 của Đảng, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 36 ngày
30-05-2014, trong đó về phương diện công tác nhân sự, Chỉ thị 36 đã khắc
phục được nhiều vướng mắc của Chỉ thị 37 khóa 10, đã làm rõ số lượng,
cơ cấu, độ tuổi cấp ủy cho cấp quận, huyện; cấp tỉnh ủy, thành ủy trực
thuộc Trung ương; đưa ra các yêu cầu về tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán
bộ người dân tộc thiểu số; xác định các đồng chí cấp ủy đương nhiệm còn
30 tháng được tiếp tục tái cử; chú ý bố trí sắp xếp và thực hiện chính
sách cho các đồng chí không còn trong độ tuổi tái cử.
Chỉ thị còn thể hiện sự quán triệt sâu sắc tinh thần của Nghị quyết
Trung ương 4 về xác định tiêu chuẩn cấp ủy viên, trong đó nhấn mạnh các
tiêu chuẩn theo Nghị quyết Trung ương 4, nhất là yêu cầu cấp ủy viên về
thái độ nghiêm túc khắc phục, sửa chữa kịp thời những tồn tại, yếu kém
và khuyết điểm sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị
quyêt Trung ương 4. Chỉ thị cũng đã xác định rõ là không cơ cấu vào cấp
ủy những đồng chí không gương mẫu thực hiện các quy định của Đảng, pháp
luật của Nhà nước hoặc vi phạm những điều đảng viên, cán bộ, công chức
không được làm.
Nhìn chung, Chỉ thị vừa thể hiện tính nghiêm minh của kỷ cương trong
Đảng, vừa thể hiện tính đổi mới trong cách làm và tính nhân văn trong
chính sách cán bộ của Đảng. Theo đó, trong quá trình triển khai, các cấp
ủy đều thống nhất thừa nhận Chỉ thị là rõ ràng, công minh, dễ làm và dễ
thực hiện. Một số trường hợp cấp ủy đương nhiệm quá tuổi quy định tham
gia tái cử cấp ủy mới chỉ năm đến bảy ngày đã không quá tâm tư, bức xúc,
đồng thời xác định không tham gia tái cử và sẵn sàng nhận sự bố trí,
sắp xếp công việc khác.
Rõ ràng, Chỉ thị 36 đã thể hiện chủ trương nhất quán của đảng ta trong
lãnh đạo, chỉ đạo công tác nhân sự và bầu cử tại đại hội Đảng bộ các
cấp. Trên cơ sở này, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo chặt chẽ, sâu
sát, thống nhất, khách quan và công bằng khi cho ý kiến về nhân sự cấp
ủy của các tỉnh, thành phố và các đảng bộ trực thuộc Trung ương. Việc
thực hiện nghiêm ở cả cấp Trung ương trong chỉ đạo và cấp địa phương
trong thực hiện đã thể hiện sự thống nhất từ trên xuống dưới, giữ vững
nguyên tắc, nhất quán trong thực hiện và chính điều này là nguyên nhân
trực tiếp đem lại sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp.
Công tác đánh giá cán bộ, quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, luân chuyển,
chuẩn bị nhân sự có thể rất tốt nhưng sẽ là không thành công, nếu công
tác bầu cử không được tổ chức tốt. Hiểu rõ tình hình thực tế và rút ra
các bài học của công tác bầu cử trong Đảng nhiệm kỳ trước, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã ban hành Quy chế bầu cử số 244 ngày 9/6/2014 và trên
cơ sở đó, các ban tham mưu của Đảng ban hành hướng dẫn phương hướng
công tác nhân sự và hướng dẫn bầu cử cấp ủy các cấp, bảo đảm tính nhất
quán, chặt chẽ, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương.
Quy chế bầu cử mới đã chú trọng hơn nguyên tắc bảo đảm dân chủ và trách
nhiệm của các cấp ủy, của từng đại biểu trong thực hiện quy trình bầu
cử, tập trung nhiều hơn đến trách nhiệm chuẩn bị của cấp ủy và vai trò
của từng cấp ủy viên trong việc chấp hành các quyết định của cấp ủy.
Chẳng hạn, quyền ứng cử và đề cử trong đại hội được tôn trọng nhưng phải
bảo đảm nguyên tắc một ủy viên cấp ủy sẽ không tự ứng cử và nhận quyền
đề cử nếu trong danh sách đề cử của cấp ủy, cấp ủy viên này không được
giới thiệu. Bầu cử phải có số dư so với số lượng cần bầu nhưng cấp ủy
chỉ được chuẩn bị số dư không quá 15% và tại đại hội có thể giới thiệu
thêm nhưng không vượt quá 30%.
Điều này đã khắc phục được tình trạng thiếu tập trung và tản mạn trong
giới thiệu đề cử. Đây là điểm mới của công tác bầu cử lần này, và nhờ
đó, đại hội đảng bộ các cấp đã diễn ra thuận lợi, thông suốt. Hầu hết
các đại hội tôn trọng và nhất trí cao với sự chuẩn bị nhân sự cấp ủy mới
của cấp ủy các cấp, số dư giới thiệu thêm không nhiều và kết quả là các
đồng chí trúng cử đều là các đồng chí đã có quá trình chuẩn bị lâu dài
do cấp ủy các cấp giới thiệu.
Như vậy, từ Nghị quyết Trung ương 4 đến đại hội đảng bộ các cấp, một
logic tất yếu của quy trình công tác cán bộ, từ chuẩn bị nhân sự đến tổ
chức đại hội để bầu cử cấp ủy đã được chúng ta chủ động tiến hành sớm,
kỹ lưỡng, bài bản, khoa học, đồng bộ, tổng thể, liên thông giữa các khâu
trong công tác cán bộ: 1 - tiến hành đánh giá, lựa chọn cán bộ để
chuẩn bị nguồn quy hoạch, dự nguồn đào tạo và nguồn cấp ủy, trong đó có
lấy phiếu tín nhiệm; 2 - rà soát, bổ sung quy hoạch cấp ủy và lãnh đạo
chủ chốt một cách thường xuyên, liên tục; phát hiện nhân tố mới đủ tiêu
chuẩn bổ sung quy hoạch và đưa ra khỏi quy hoạch những người không còn
đủ tiêu chuẩn; 3- thực hiện luân chuyển 54 đồng chí thuộc diện Trung
ương quản lý để đào tạo bồi dưỡng thông qua thực tế địa phương và điều
động 28 đồng chí đang công tác tại các địa phương về Trung ương để có
điều kiện kiện toàn các chức danh chủ chốt gắn với nguồn nhân sự tham
gia cấp ủy địa phương khóa mới; 4 - mở sáu lớp dự nguồn cao cấp với tổng
số 511 học viên - nguồn chuẩn bị chủ yếu cho cấp ủy địa phương và Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII; 5 - ban hành Chỉ thị 36 và Quy chế bầu cử
rõ ràng là phương thức hiện thực hóa công tác chuẩn bị nhân sự.
Nhờ vậy, trên cơ sở danh sách nhân sự cấp ủy do ban chấp hành các
cấp ủy chuẩn bị, trong đó chủ yếu là các nhân sự có quy hoạch, đại hội
các cấp đã thực hiện rất nghiêm túc quy chế bầu cử, đã giới thiệu hầu
như không nhiều số dư so với chuẩn bị của cấp ủy. Kết quả là nhân sự do
các cấp ủy chuẩn bị đều trúng cử và trúng với số phiếu rất cao trong khi
các trường hợp giới thiệu ngoài danh sách do cấp ủy chuẩn bị hầu hết
không trúng cử. Điều đó cũng có thể nói rằng, Chỉ thị 36 và Quy chế bầu
cử là nhân tố trực tiếp, góp phần quyết định sự thành công tốt đẹp của
đại hội đảng bộ các cấp.
Công tác cán bộ nói chung và công tác nhân sự nói riêng là một chỉnh
thể thống nhất của nhiều khâu, từ công tác chuẩn bị cán bộ (quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển...) - một sự tiếp cận cả ngắn, trung và
dài hạn- đến công tác chuẩn bị nhân sự trực tiếp (phương hướng nhân sự,
quy trình giới thiệu, quy chế bầu cử...).
Nhiệm kỳ này chúng ta đã thực hiện được khá nhiều các công việc chưa từng làm. Đó
là đã hình thành một khuôn khổ thiết chế và cơ sở pháp lý đủ minh bạch,
rõ ràng, dễ triển khai, ít ngoại lệ và không gây cách hiểu khác nhau
trong quá trình thực hiện công tác cán bộ nói chung, công tác nhân sự
nói riêng. Thực tế thành công của đại hội đảng bộ các cấp đã minh chứng
rằng, ở đảng bộ nào và địa phương nào quán triệt sâu sắc nghị quyết
Trung ương 4, nắm vững các chỉ thị và hướng dẫn triển khai thì các địa
phương đó quy hoạch, lưa chọn, bồi dưỡng và phát triển đúng người, bầu
cử đúng nhân sự. Ở đâu có sự đề cao vai trò của cấp ủy, vai trò và trách
nhiệm cao của người đứng đầu thì mọi khâu đều được triển khai thông
suốt và có hiệu quả.
Tư duy đổi mới về công tác cán bộ là luôn luôn cần thiết. Đổi mới công
tác cán bộ, công tác nhân sự của chúng ta hiện nay tuy có những việc
chưa từng làm, chưa có tiền lệ, trong quá trình làm cũng gặp phải những
khó khăn trắc trở, nhưng chúng ta vẫn giành được những kết quả hết sức
khả quan. Chính thực tiễn của chúng ta, với tư duy dám đột phá và dám
đổi mới, xuất phát từ yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, để Đảng ta thật sự “là đạo đức, là văn minh”, chúng ta vừa
làm, vừa rút ra nhiều kinh nghiệm quý mà Nghị quyết Trung ương 4 là một
điểm sáng của nhiệm kỳ Đại hội XI.
Chúng ta đã tìm thấy sự thành công về công tác nhân sự của đại hội đảng
các cấp từ chính trong Nghị quyết Trung ương 4, từ sự triển khai đồng
bộ, rất có hiệu quả của công tác kiểm điểm trong Đảng theo Nghị quyết
Trung ương 4, của công tác quy hoạch, công tác đào tạo và bồi dưỡng dự
nguồn cao cấp, của công tác luân chuyển, của xây dựng phương hướng nhân
sự, của quy chế bầu cử và thực hiện bầu cử. Cho dù các kết quả đạt được
mới chỉ là bước đầu, vẫn còn những hạn chế, vướng mắc cần tiếp tục hoàn
thiện nhưng có thể khẳng định, trên phương diện công tác nhân sự, đại
hội đảng bộ các cấp đã thành công tốt đẹp. Kết quả này, tinh thần này
đang mang đến không chỉ trong Đảng mà trong nhân dân một khí thế mới,
niềm tin mới và chúng ta tin tưởng sâu sắc rằng, sự thành công của đại
hội đảng bộ các cấp là tiền đề cho sự thành công của Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ 12 của Đảng.
Tô Huy Rứa
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng
Trưởng Ban Tổ chức Trung ương
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng
Trưởng Ban Tổ chức Trung ương
Bố của Tô Linh Hương