Thursday 19 March 2015

Công sứ Darles chưa bao giờ bán cháo




Bản án chế độ thực dân Pháp có ít nhất hai lần gọi công sứ Darles là anh hàng cháo:

Cái ông Đáclơ ấy quả là một nhà cai trị có tài. Khoa cai trị của ông ta, ông ta đã học được ở khu phố latinh khi ông còn là một anh hàng cháo.
(Ce M. Darles est un administrateur de valeur. Il a acquis sa science politique au Quartier latin, où il fut marchand de soupe.)
...
Chễm chệ đứng đầu một tỉnh có hàng vạn dân, và được giao cho quyền hành tuyệt đối, ông ta vừa là tỉnh trưởng, vừa là thị trưởng, vừa là quan toà, vừa là mõ toà, vừa là người đốc thuế; tóm lại, ông ta nắm trong tay tất cả mọi quyền hành: Toà án, thuế khoá, điền thổ, tính mạng và tài sản của người bản xứ, quyền lợi của viên chức, việc bầu cử lý trưởng và chánh tổng, tức là vận mạng của cả một tỉnh được đặt vào tay cái anh hàng cháo ngày xưa ấy.
(Confortablement mis à la tête d'une province de plusieurs milliers d'habitants et investi d'un pouvoir sans contrôle, il est préfet, maire, juge, huissier, garnisaire, en un mot, il cumule tous les pouvoirs. Justice, impôt, propriété, vies et biens, des indigènes, droits des fonctionnaires, élections des maires et chefs de canton, c'est­à­dire la destinée d'une province entière est confiée aux mains de cet ancien popotier.)
Bản dịch này có chỗ không ổn.
Trước hết, cháothức ăn lỏng nấu bằng gạo hay bằng bột (Văn Tân, 1994:144) và thường thì nói tới cháo là người Việt nghĩ ngay tới gạo (Lê Văn Đức et al., 1970a:264). Nhưng người Việt thường dùng gạo để nấu thành cơm, ít khi nấu cháo. Bữa ăn trong tiếng Việt còn được gọi là bữa cơm. Ăn cháo là chuyện vạn bất đắc dĩ. Người Việt không ăn cháo nếu không đau ốm hoặc không quá túng thiếu.
Nhưng ở Pháp người ta không mấy khi ăn cơm. Bây giờ vẫn thế. Cách đây một thế kỷ chỉ nhà giàu mới rùng rẻng bạc tiền đi ăn cơm Tàu. Ăn được một bát cháo ở trời Tây còn khó hơn. Làm chủ hàng cháo ở khu phố La Tinh đại khái cũng giống như mở nhà hàng 5 sao giữa thành phố Hồ Chí Minh bây giờ.
Các từ marchand de soupepopotier trong bản gốc chỉ nhấn mạnh xuất thân hạ tiện của công sứ Darles, nguyên là một tay bán hàng ăn bình dân. Không việc gì phải đoán xem soupecháo hay xúp, món nào sang trọng (hay hèn kém) hơn món nào. Xúp là một món chủ lực của người Pháp nên từ soupe cũng có nghĩa là bữa ăn, không khác gì người Việt gọi bữa ănbữa cơm.
Theo cùng nguyên tắc này, người Công Giáo Việt Nam không xin bánh mì khi đọc kinh Lạy Cha:
Xin Cha cho con lương thực hàng ngày dùng đủ.
Pain trong tiếng Pháp (Donnez-nous aujourd'hui notre pain quotidien) panis trong tiếng La Tinh (Panem nostrum supersubstantialem da nobis hodie) có thể là miếng bánh đối với Tây, nhưng là bát cơm của ta. Nó là lương thực, là cái ăn trong mọi trường hợp.

Wednesday 18 March 2015

Chơi chữ tài tình trong Procès de la colonisation française




Tiếng Pháp có từ chinoiserie, vốn dùng để chỉ những thứ có mùi Tàu. Từ này dùng ở số nhiều (chinoiseries) chỉ hàng mỹ nghệ của Trung Quốc nói chung: magasin de chinoiseries (cửa hàng mỹ nghệ Trung Hoa), cũng có thể dùng để chỉ những chuyện rất ư là phiền toái, rắc rối, không giống ai... vì người Pháp vẫn nghĩ “Tàu là thế”.
Dựa vào từ chinoiserie Nguyễn Ái Quốc đã tạo ra từ indochinoiserie để chỉ một sự hết sức vớ vẩn chỉ có ở Đông Dương:
Vous diriez peut­être que c'est une vaste indochinoiserie que de faire gouverner un pays par un homme qui n'y entend rien.
Bản dịch của nhà xuất bản Sự Thật (1975):
Có lẽ các bạn cho rằng đưa một người không hiểu gì về Đông Dương đến nắm vận mệnh Đông Dương thì thật là một trò hề lớn kiểu Đông Dương chứ gì.